niềm của mình. Hình thức độc thoại là hình thức tự nhiên nhất của sự biểu hiện những suy nghĩ, tình cảm của nhân vật, rất phổ biến trong ca dao. Tất nhiên, trong bài ca độc thoại, ta vẫn thấy thấp thoáng bóng dáng của nhân vật đối thoại (thiên nhiên, con người) qua lời hô gọi, lời nhắn gửi. Và do vậy, trong độc thoại đã có đối thoại (với thiên nhiên, với người khác hay với chính bản thân của nhân vật trữ tình).
Kết cấu một vế (độc thoại) thường xuất hiện nhiều hơn trong bài ca về tình cảm gia đình và bài ca về các mối quan hệ xã hội. Bài ca về tình cảm gia đình và về các mối quan hệ xã hội có thành phần nhân vật trữ tình nhiều hơn trong bài ca về tình yêu lứa đôi. Nhân vật trữ tình cũng sống trong quan hệ tình cảm phức tạp hơn. Ví dụ: nhân vật trữ tình trong bài ca về tình cảm gia đình là người con, người mẹ, người vợ, người chồng, bố mẹ đẻ, bố mẹ chồng, vợ cả, vợ lẽ,…Những tình cảm ấy trong thực tế ít khi được thể hiện qua sinh hoạt diễn xướng giữa hai bên, hai tiếng hát, hai người hát.
Kết cấu hai vế hay đối thoại là sự biểu hiện rõ rệt mối quan hệ của các nhân vật trong tác phẩm, chiếm vị trí quan trọng trong ca dao. Kết cấu đối thoại thường có hình thức câu hỏi - câu trả lời, lời đố - lời đáp. Các hình thức hỏi – đáp rất đa dạng.
Lại có trường hợp, đầu bài ca là phần kể chuyện, tiếp đó mới là đối thoại của hai nhân vật. Ví dụ bài ca dao sau đây :
Sáng ngày em đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng: cô ấy vội vàng đi đâu ?
Thưa rằng: Tôi đi hái dâu Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn
Thưa rằng: Bác mẹ tôi răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc trưng kết cấu ca dao trữ tình - 2
- Kết Cấu Ca Dao Trữ Tình Xét Ở Gĩc Độ Diễn Xướng
- Kết Cấu Ca Dao Trữ Tình Xét Ở Góc Độ Diễn Xướng
- Đặc Trưng Diễn Xướng Tạo Nên Những Biến Đổi Của Đơn Vị Tác Phẩm Ca Dao
- Đặc trưng kết cấu ca dao trữ tình - 7
- Đặc trưng kết cấu ca dao trữ tình - 8
Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.
Cần nhấn mạnh rằng, tuy ca dao được lưu truyền là nhờ các hình thức dân ca đối đáp, các sinh hoạt dân ca nhưng trong các bộ sưu tập ca dao lại hiếm các tác phẩm ghi đầy đủ hai vế là vế đối và vế đáp, mà có khi chỉ là một vế đối hoặc một vế đáp. Lại có trường hợp, trong quá trình sáng tác, lúc đầu chỉ là một người hát, nhiều người phụ họa. Về sau, có nhiều người hát và phụ họa, có bên “đối” và bên “đáp”. Những khúc hát nào hay, hợp với tình cảm, thị hiếu của mọi người thì sẽ được lưu truyền. Ngược lại, sẽ bị quên lãng và biến mất hoặc bị biến đổi (chỉ còn phần “đối” hoặc phần “đáp”). Điều này phù hợp với tâm lý sáng tác tập thể, với hình thức sáng tác lưu truyền ca dao. Nguyễn Xuân Kính cho thấy: “Trong quá trình lưu truyền, vế trên có thể được tách ra và khi đó vế này được coi như là một lời khác biệt vì nội dung của riêng nó đã có thể diễn đạt trọn vẹn một điều mà người hát mong muốn. Chẳng hạn, một chàng trai nào đó muốn tỏ tình với một cô gái thì chỉ hát vế đầu và có thể cô gái im lặng, không trả lời. Lúc đó, rõ ràng là một lời riêng biệt. Dạng này thuộc loại kết cấu mở” [97, tr.159].
Chẳng hạn: “Cô kia cắt cỏ bên sông / Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây / Sang đây anh nắm cổ tay / Anh hỏi câu này: cô lấy anh chăng?” (TL.I (1), L.1717, tr.692). Lời ca dao này là vế “đối” của chàng trai, đứng độc lập như một đơn vị tác phẩm, không có vế “đáp” của cô gái. Hay có khi lại chỉ có lời của cô gái – tồn tại độc lập như một đơn vị tác phẩm mà không thấy vế “đối” của chàng trai: “Có hát thì hát cho bổng cho cao / Cho gió lọt vào cho chúng chị nghe / Chị còn ngồi võng ngọn tre / Gió đưa cút kít không nghe thấy gì” (TL.I (1), L.1335, tr.611).
Đỗ Bình Trị đã viết: “Văn học dân gian chỉ tồn tại trong đời sống thực tế dưới dạng tác phẩm cụ thể thuộc thể loại cụ thể…Trong các sách
sưu tập ca dao, ta chỉ thấy hầu như toàn những bài “một vế”, rất ít cặp bài gồm cả “vế đối” và “vế đáp”. Đương nhiên, bài “một vế” vẫn là, chính là một đơn vị tác phẩm, một bài ca dao hoàn chỉnh, và tự nó đã có đầy đủ đặc tính của kết cấu đối đáp (không cần dựa vào dấu hiệu bên ngoài nó là “vế đáp”), vì bản thân nó là một lời trò chuyện” [186, tr.43, 75]
Kết cấu hai vế đối đáp trong bài ca dao trên mang tính đối thoại rõ, thể hiện lối trò chuyện, giải bày trực tiếp giữa hai người (hoặc hai bên nam - nữ), được sử dụng linh hoạt trong các cuộc hát lẻ và hát cuộc của sinh hoạt dân ca. Điểm đặc biệt của lối đối đáp trong ca dao là nhiều lời ca không phân biệt được đâu là lời của bên nữ, đâu là lời của bên nam. Bài ca dao sau là ví dụ minh họa về nhiều cách hiểu của các nhà nghiên cứu:
-Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím Em có chồng rồi, trả yếm cho anh
-Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh Yếm em, em mặc, yếm gì anh, anh đòi?
Do diễn xướng trong ca dao thường là đối đáp trực tiếp nên nội dung của nó tuy rất sâu nhưng lại xa xôi bóng gió, thậm chí tối nghĩa.
Trong lĩnh vực thơ ca, nếu như R.Jakobson đi tìm “chất văn” của ngôn ngữ, thì V.Shkolovski chú ý đến thủ pháp “lạ hóa”, nhòe nghĩa của nghệ thuật ngôn từ. Cịn Noam Chomsky – nhà ngữ học tạo sinh – thì coi ngôn ngữ như một sự tạo tác và sinh động không ngừng. Những tác phẩm nghệ thuật trên thế giới mà cĩ sức cuốn hút, gây nhiều tranh luận và trường tồn mãi với thời gian hầu hết đều do tính xa xơi, bĩng giĩ của nĩ. Một tác phẩm nghệ thuật đích thực thì phải làm cho người đọc qua các thế hệ muốn khám phá thêm nét nghĩa nào đĩ. Tính xa xơi, bĩng giĩ được thể hiện rõ qua ca dao – những tác phẩm ngắn, thậm chí rất ngắn (hai dịng thơ) – bởi vì tác
phẩm càng ngắn, càng xa xôi, bóng gió sẽ càng làm cho việc hiểu nội dung tác phẩm khó hơn, đa dạng hơn. Nhiều lời ca dao vô tận về nghĩa để người tiếp nhận tha hồ tìm tòi, khám phá. Tính xa xôi, bóng gió được nhiều nhà nghiên cứu gọi là tính mơ hồ, đa nghĩa. "Tính mơ hồ, đa nghĩa là sự mê hoặc hấp dẫn của nghệ thuật. Hoàn toàn kín mít, không nhìn thấy ý nghĩa là vô vị, mà nhìn một cái nhận ra ngay hết mọi ý nghĩa cũng là hết vị. Tính mơ hồ đa nghĩa đảm bảo thu hút người đọc đi vào cuộc tìm tòi bất tận về ý nghĩa, và chỉ có tác phẩm nghệ thuật đích thực, phong phú mới giữ được sức quyến rũ lâu bền" [164, tr162].
Ca dao thường được sử dụng trong đối thọai, đối đáp trực tiếp. Trong đối thoại trực tiếp, nói thẳng ra nhiều khi rất khó nói, thậm chí có thể thành vô duyên, sỗ sàng. Đối thoại trực tiếp trong ca dao khiến người hát dùng cách nói gián tiếp, bóng gió. Hòan cảnh đối đáp sẽ “nói thay”, sẽ giải thích cụ thể cách nói đó. Ngoài ra, ca dao thường sử dụng các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ và tượng trưng, v.v…có khả năng nói ngắn gợi nhiều, tạo ý nghĩa mơ hồ. Các biện pháp tu từ đã tạo ra các sắc thái biểu đạt tinh vi, đa dạng trong nội dung thể hiện.
Cách thức giao tiếp của nhân vật trữ tình trong ca dao thể hiện qua những lời hát đối đáp. Vế đối đặt trước vế đáp, có thể là một hay nhiều câu hỏi; vế đáp là những câu trả lời tương ứng. Vế đối rất đa dạng: có khi rất dễ để ai cũng trả lời được, có khi lại rất khó để chỉ có người trong cuộc mới hiểu, trả lời đúng và cũng là để thử tài của người đáp.
Ví dụ:
-Chữ chi anh chôn dưới đất Chữ chi anh cất trên đầu Chữ chi anh mang không nổi Chữ chi gió thổi không bay
- Chữ hoàng thiên anh chôn dưới đất Chữ phụ mẫu anh cất lên đầu
Chữ đá vàng anh mang không nổi Chữ duyên tình gió thổi không bay
Em trao chi cho anh thỏa dạ, chứ trao tay lạng vàng anh nỏ cảm ơn.
(TL.I (1), L.1194, tr.586)
Lời hỏi trong bài ca dao này không phải ai cũng trả lời được, chỉ có chàng trai mới hiểu và trả lời đúng.
Ngôn ngữ ca dao xa xôi bóng gió là do bài ca dao ngoài nội dung ý nghĩa trực tiếp - xuất phát từ những từ ngữ, câu chữ biểu hiện - còn có “sức gợi” (chữ của Đỗ Bình Trị) ẩn chứa bên trong từ ngữ, câu chữ đó. Cái hay của bài ca dao chính là “sức gợi” này, mà “sức gợi” trong cảm nhận của mỗi người, mỗi thời đại mỗi khác nhau (thậm chí rất khác). “Sức gợi” trong ca dao cũng chính là “sức gợi” trong thơ ca, nghệ thuật nói chung. “Sức gợi” được tạo nên bởi sự hòa đồng, đồng cảm, sự “cộng hưởng” giữa người sáng tác và người thưởng thức.
Ngôn ngữ ca dao xa xôi bóng gió còn do: “Ngôn ngữ ca dao truyền thống là ngôn ngữ của một thời đã qua, cách đây hàng thế kỷ về trước (có bài cách đây hàng ba bốn trăm năm hoặc nhiều hơn)” [193, tr.34]. Do đó, ca dao trữ tình có những từ ngữ, những cách diễn đạt xa lạ, khó hiểu đối với con người hiện nay. Ví dụ:
Chơi cho thủng trống long chiêng Rồi sau ta sẽ lập nghiêm lấy chồng
(TL.I (1), L.10, tr.209)
Từ “lập nghiêm” là một từ mà ngày nay ít người sử dụng, do đó sẽ tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau. Ngoài các lớp từ ngữ cổ, ca dao lại có khá nhiều từ ngữ địa phương, chỉ quen thuộc đối với nhân dân trong những vùng, miền nhất định. Chẳng hạn như:
Gió đưa cành liễu quằn hiêu
Chim kêu ríu rít như khêu mối sầu”
(TL.I (1), L.269, tr.1144)
Từ địa phương Nam Trung Bộ “quằn hiêu” có nghĩa là cong vòng. Nếu hiểu từ ngữ trong ca dao trữ tình theo nghĩa thông dụng hiện nay thì sẽ không tránh khỏi những sai lầm ngộ nhận, nhiều khi dẫn đến nhận thức sai lệch về nội dung, ý nghĩa và giá trị nghệ thuật của toàn bài ca dao.
Đỗ Bình Trị đã khẳng định: “Ca dao vốn đã có tính chất phiến đoạn, rời rạc, quá cô đúc, thậm chí nhiều khi cô đúc đến mức tối nghĩa. Tối nghĩa không phải do cách diễn đạt. Tối nghĩa chủ yếu do “tình cảm bị che dấu rất sâu, không thể và cũng không muốn bộc lộ hoàn toàn”. Những nhận xét trên của F.Hê-ghen về đặc điểm chung của thơ ca trữ tình dân gian cũng nghiệm đúng với ca dao Việt Nam…Ca dao, nếu tối nghĩa thì chỉ tối nghĩa với người ngoài cuộc. Một câu ca dao như câu: Ầm ầm nghe tiếng ong san / Chị em cất gánh lên ngàn tìm hoa. Nếu không được chú giải, liệu ai có thể hiểu “ong san” vừa có nghĩa là ong san tổ, vừa chỉ Ông San, tức là Phan Bội Châu? (Đây là câu các cô phường vải hát mừng ông giải San đến hát)” [187, tr.155,156]. Ca dao không tối nghĩa với người trong cuộc vì hoàn cảnh diễn xướng đã cung cấp những dữ kiện giúp người trong cuộc hiểu được ý nhau.
Ví dụ: Chừng nào cho mõ xa đình
Hạc xa hương án, chung tình mới xa
(TL.I (1), L.1239, tr.593)
Hình ảnh “hạc” và “hương án” là hai hình ảnh lạ với nhiều người, nhưng nếu dựa vào cặp hình ảnh luôn gắn bó với nhau là: “mõ”, “đình” – những hình ảnh rất thân quen với làng quê Việt Nam - và từ “chung tình” thì có thể suy đoán “hạc” gắn bó với “hương án”, tìm ra đúng ý nghĩa của lời ca dao.
1.4.2. Đặc trưng diễn xướng tạo nên những đặc thù của đơn vị tác phẩm ca dao
Xin dẫn một số ví dụ Ví dụ 1:
Ví dụ 2:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
( TL.I (1), L495, tr.886)
- Anh đến tìm hoa Thì hoa đã nở Anh đến tìm đò
Thì đò đã sang sông
Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng Em yêu anh như rứa có mặn nồng chi mô?
-Hoa đến kỳ thì hoa phải nở Đò đã đầy thì đò phải sang sông Đến duyên thì em phải lấy chồng
Em yêu anh như rứa đó, còn mặn nồng thì tùy anh
(TL.I (1), L.275, tr.108)
Hai vế của từng ví dụ trên là hai hay chỉ là một tác phẩm? Theo quan niệm truyền thống, ví dụ 1 và ví dụ 2 đều là hình thức kết cấu đối đáp có hai vế, tức là ví dụ 1 là một đơn vị tác phẩm, ví dụ 2 cũng là một đơn vị tác phẩm và mỗi đơn vị tác phẩm ở đây gồm hai vế. Trong hai vế này, có tác giả nhận xét, tình ý của bài ca nằm chính ở vế thứ hai, tức vế đáp.
Ví dụ :
Em đố anh từ Nam chí Bắc Sông nào là sông sâu nhất ?
Núi nào là núi cao nhất ở nước ta ?
Anh mà giảng được cho ra
Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh
- Sâu nhất là sông Bạch Đằng Ba lần giặc đến ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra
(TL.I (1), L.65, tr.1029)
Bài ca dao này, qua câu đố của cô gái, muốn thử tài hiểu biết, quan trọng hơn là muốn thể hiện lòng tự hào về cảnh đẹp, đặc biệt là về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chàng trai, qua vế đáp, đã hiểu ra, đã đáp trúng tình ý ấy. Tất nhiên, mỗi vế của bài ca dao hai vế này đều có vai trò, ý nghĩa đặc biệt, không có vế đối thì không có vế đáp, nhưng rõ ràng tình ý chính của bài là thể hiện ở vế thứ hai.
Có quan niệm khác cho rằng hai vế của mỗi ví dụ nói trên đều là hai đơn vị tác phẩm, tức mỗi vế là một đơn vị tác phẩm. Bởi vì, qua hình thức sáng tác, lưu truyền và cách tạo lập các dòng ca dao, thì mỗi vế với các dòng thơ của nó đã tạo thành một chỉnh thể hoàn chỉnh. Đồng thời, mỗi vế đều có chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình, cảm xúc trữ tình riêng. Mỗi vế