ghi nhận là một nguyên tắc của TTHS; trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa còn hạn chế, bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị, chế độ đãi ngộ chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự.
Từ khi thưc
hiên
đ ổi mới, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu
trong phát triển mọi mặt, từ chính trị tới kinh tế, xã hội, văn hóa. Đặc biệt, từ sau Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), thực hiện chủ trương “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế”, nước ta càng có những bước tiến nhanh trong việc cải thiện quyền con người. Với chủ trương đổi mới đúng đắn, nhất là trong phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, đất nước đã có bước tiến đáng kể trong cải thiện điều kiện, mức sống của người dân. Hiện nay nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, một mặt, chúng ta cần nhìn nhận rõ tầm quan trọng của chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Xuất phát từ chủ trương không ngừng phát triển quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã và đang xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm các quyền con người được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ nhất. Trong đó, xác định “mở rộng tranh tụng là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” và tranh tụng trở thành nguyên tắc cơ bản trong tố tụng nói chung và TTHS nói riêng và là một trong những yêu cầu tất yếu trong xu thế chung của khu vực và toàn cầu. Lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận trong Hiến pháp 2013, tại khoản 5 Điều 103 quy định “5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là cách thức nâng cao nhận thức, tạo ra môi trường dân chủ bình đẳng trong quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền từ điều tra, truy tố, xét
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 9
- Thực Trạng Hoạt Động Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Bắc Ninh Giai Đoạn 2008 – 2013:
- Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế Trong Hoạt Động Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Bắc Ninh.
- Nâng Cao Trình Độ, Kĩ Năng Điều Khiển Tranh Tụng Của Thẩm Phán, Hội Thẩm Nhân Dân:
- Nâng Cao Chất Lượng Của Kiểm Sát Viên Trong Hoạt Động Tranh Tụng Tại Phiên Tòa:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 15
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
xử nâng cao năng lực, trình độ; hạn chế được chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần rất quan trọng để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai. Đồng thời, đây cũng là cách thức mà nền tư pháp tham gia bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách hữu hiệu nhất. Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là phù hợp với xu hướng quốc tế, bởi đa số các nước có nền dân chủ tiến bộ đều áp dụng nguyên tắc này với các mức độ và hình thức khác nhau.
Từ xu thế chung đó xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hệ thống pháp luật để góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang thực hiện. Theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” thì:
Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định [3].
Vấn đề tranh tụng tại phiên tòa tiếp tục được đề cập trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” như sau:
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [4].
Chủ trương mở rộng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà hình sự theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 09- NQ/TW của Bộ Chính trị là hoàn toàn đúng đắn. Chủ trương tăng cường tranh tụng đề ra trong các nghị quyết của Đảng là nhằm mở rộng và tăng cường hơn nữa môi trường dân chủ, tính công khai, minh bạch, công bằng vủa quá trình giải quyết vụ án hình sự, thiết lập các cơ chế để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người, bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau, đó là: các giải pháp pháp lý; các giải pháp về tổ chức; các giải pháp về con người, các giải pháp vật chất – kỹ thuật. Các giải pháp này liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau, giải pháp này là tiền đề và điều kiện để tiến hành các giải pháp kia và ngược lại. Cụ thể:
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS hiện hành liên quan đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự:
Việc kết hợp một số yếu tố của hệ thống tố tụng tranh tụng để xây dựng mô hình tố tụng ở nước ta theo hình thức hỗn hợp, thẩm vấn nhưng có yếu tố tranh tụng là phù hợp, bởi vì nó đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế và cải cách Tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, các quy định trong BLTTHS sẽ được sửa đổi trong thời gian tới có liên quan đến tranh tụng cần được xây dựng theo các hướng sau:
Thứ nhất, cần phải quy định trong BLTTHS tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử: Tranh tụng phải được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS giữ vai trò chi phối và định hướng cho hoạt động và hành vi tố tụng của tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án hình sự phù hợp với chức năng tố tụng của các chủ thể đó theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc đó phải được thể hiện đầy đủ trong các quy định cụ thể của BLTTHS: bình đẳng trong quá trình chứng minh (bao gồm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ), bình đẳng trong bày tỏ quan điểm, đưa ra các yêu cầu và tranh luận trước Tòa án…
Hiện nay đã có nhiều quy định về tranh tụng nằm rải rác ở một số điều trong BLTTHS năm 2013, như các Điều 5, 11, 19, 50, 51, 52, 53, 54, 58… nhưng chưa được ghi nhận với tính chất như một nguyên tắc cơ bản, độc lập của TTHS Việt Nam. Do đó, để nâng cao chất lượng tranh tụng dân chủ tại phiên tòa hình sự, một yêu cầu trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới ở nước ta như các Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 48-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW đã nêu phù hợp với quy định của Hiến pháp 2013 và làm cơ sở cho việc xây dựng các quy định cụ thể vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, cần phải đưa vấn đề tranh tụng lên thành một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử với những nội dung chính sau đây:
- Cần khẳng định sự tách bạch giữa các chức năng cơ bản của TTHS là chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử. Những chức năng này do các chủ thể khác nhau thực hiện.
- Khẳng định sự bình đẳng của bên buộc tội và bào chữa trong hoạt động thu thập, đưa ra các chứng cứ, các yêu cầu và tranh luận về các vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.
- Khẳng định nghĩa vụ của các Cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện tốt nhất để thực hiện việc tranh tụng. Tòa án có trách nhiệm để các
bên tranh tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, phải xem xét vô tư khách quan mọi chứng cứ và lý lẽ của bên buộc tội cũng như bên bào chữa. Bản án của Tòa án chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng giữa các bên.
Theo đó, điều luật mới có nội dung như sau:
“Điều…: Tranh tụng là nguyên tắc trong tố tụng hình sự:
Trong tố tụng hình sự, các chức năng buộc, bào chữa và xét xử độc lập với nhau.
Bên buộc tội và bên bào chữa bình đẳng với nhau trong việc thu thập và đưa ra các chứng cứ, các yêu cầu và tranh luận vê các vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Tòa án có trách nhiệm để các bên tranh tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, xem xét vô tư, khách quan mọi chứng cứ và lý lẽ của bên buộc tội cũng như bên bào chữa. Bản án của Tòa án chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng giữa các bên”.
Thứ hai, quy định về các điều kiện bảo đảm sự bình đẳng của các bên tranh tụng: Trong TTHS, bên bào chữa và bên buộc tội chỉ có thể bình đẳng với nhau khi các bên đều được bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả chức năng của mình theo quy định của pháp luật. Các điều kiện này không chỉ bao gồm bảo đảm về mặt pháp lý (các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật giành cho các chủ thể của mỗi bên ở từng giai đoạn tố tụng cụ thể) mà còn các bảo đảm khác. BLTTHS hiện hành quy định chưa đầy đủ các điều kiện bảo đảm sự bình đẳng của bên buộc tội và bên bào chữa trên thực tế. Điều đó thể hiện ở một số vấn đề sau đây:
Điều 10 của BLTTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, trách nhiệm chứng minh bị cáo có tội hay không có tội tại phiên tòa đó là của HĐXX. Do vậy, hiện nay tại phiên tòa, HĐXX cũng tiến hành một số hoạt động tố tụng để chứng minh tội phạm.
Ví dụ: HĐXX sẽ nhắc hoặc công bố lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra nếu lời khai của họ tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không khai, vắng mặt hoặc đã chết (Điều 208). Như vậy, vô hình chung Tòa án trở thành một cơ quan có chức năng buộc tội. Do vậy, để Tòa án đúng là “cơ quan xét xử, cầm cân nảy mực” và đảm bảo cho việc tranh tụng tại phiên tòa diễn ra dân chủ, bình đẳng, khách quan thì cần phải xác định rõ vai trò của HĐXX tại phiên tòa là người trọng tài giữa bên buộc tội và bên bào chữa để phán quyết về vụ án.
Cũng theo quy định tại Điều 10 BLTTHS, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử vẫn còn không ít trường hợp mặc dù các chứng cứ hoặc một số tình tiết của vụ án (vì những lý do nào đó) không làm rõ được ở giai đoạn điều tra và tại phiên tòa cũng không thể làm sáng tỏ được hoặc giữa chứng cứ mâu thuẫn với nhau, nhưng HĐXX vẫn dựa vào các chứng cứ và tình tiết đó để kết tội và xử phạt bị cáo. Điều đó đã dẫn đến một số trường hợp xử phạt oan sai người vô tội (ví dụ: vụ án Vườn điều ở Bình Thuận, vụ án Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang). Để khắc phục những biểu hiện thiếu dân chủ đó, cần bổ sung nội dung sau vào cuối điều luật này: “Không được sử dụng những tài liệu, chứng cứ chưa được làm sáng tỏ hoặc mâu thuẫn với nhau làm căn cứ để kết tội và xử phạt bị cáo”.
Một số quy định của BLTTHS đặt gánh nặng trách nhiệm chứng minh tội phạm lên vai HĐXX, ví dụ Điều 207 quy định: “khi xét hỏi từng người, Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa…”. Việc xét hỏi tại phiên tòa là một giai đoạn của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, cho nên cần phải sửa đổi luật quy định theo hướng để các bên tranh tụng thực hiện trách nhiệm chứng minh (VKS, người bào chữa…) tiến hành xét hỏi là chủ yếu, còn HĐXX thực hiện việc giám sát, duy trì trình tự xét hỏi và có quyền tham gia vào quá trình xét hỏi ở bất kỳ thời
điểm nào khi thấy cần thiết phải làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án chưa được các bên làm rõ trong quá trình xét hỏi. Để tạo ra một cơ chế thực sự dân chủ và bình đẳng tại phiên tòa, tạo điều kiện để thực hiện một cách có hiệu quả nhất quyền buộc tội và gỡ tội, những quy định này phải được quy định trong văn bản tố tụng có giá trị pháp lý cao nhất là BLTTHS. BLTTHS cần xác định rõ tại phiên tòa vai trò của HĐXX chỉ là người “trọng tài” giữa bên buộc tội và bào chữa để ra phán quyết về vụ án, còn việc xét hỏi theo hướng buộc tội là trách nhiệm của Kiểm sát viên, việc xét hỏi gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho bị cáo là trách nhiệm của người bào chữa. Vì vậy, đề nghị sửa đổi các quy định về xét hỏi theo hướng: khi xét hỏi, Kiểm sát viên hỏi trước, sau đó đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, các thành viên HĐXX có thể hỏi bất kỳ ở thời điểm nào nếu xét thấy cần thiết nhằm làm sáng tỏ các tình tiết về vụ án hoặc mang tính chất nêu vấn đề để các bên tập trung xét hỏi làm rõ, còn việc hỏi để buộc tội và gỡ tội dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa. Có như vậy mới thể hiện được rằng Kiểm sát viên là chủ thể đóng vai trò chính trong thủ tục xét hỏi, phải tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động xét hỏi.
Trong thực tiễn xét xử những trường hợp bị cáo có những lý lẽ (có thể là chưa phù hợp với thực tế khách quan) nhằm bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, thì thường bị coi là có thái độ không thành khẩn nhận tội và nhiều trường hợp đã được nhận định trong bản án để đánh giá nhân thân của bị cáo…Để thực sự đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa trong BLTTHS cần quy định: “Bị cáo có quyền sử dụng những biện pháp và cách thức mà pháp luật không cấm để bào chữa trước tòa, không bị coi là những tình tiết đánh giá về nhân thân cũng như về ý thức của họ”.
Tòa án nên có vai trò trọng tài trong quá trình giải quyết vụ án. Điều 13, Điều 104 BLTTHS năm 2003 quy định Tòa án được quyền khởi tố vụ án, theo quy định này Tòa án lại thực hiện chức năng buộc tội, khi Tòa án đã khởi