gia phiên toà có cảm giác HĐXX và Chủ toạ phiên toà áp đặt. Nếu bị cáo không có ý kiến gì về bản cáo trạng, thừa nhận hành vi phạm tội của mình mà VKS đã truy tố về tội danh, điều khoản của BLHS thì HĐXX không nên xét hỏi về hành vi phạm tội mà nên xét hỏi về các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên, nếu bị cáo nhận tội nhẹ để trốn tránh trách nhiệm về tội phạm nặng hơn mà VKS không truy tố, trong khi người bị hại yêu cầu xét xử bị cáo về tội nặng hơn, thì Chủ toạ phiên toà cần xét hỏi về những hành vi bị cáo phạm tội nặng hơn. Nếu có căn cứ bị cáo phạm tội nặng hơn tội mà VKS truy tố thì HĐXX phải hoãn phiên toà để trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Thực tiễn không ít cơ quan, người tiến hành tố tụng cho rằng tranh tụng tại phiên tòa là tại phần tranh luận, các bên tranh luận công khai tại phiên tòa với sự tham gia đầy đủ của các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội). Do nhận thức như vậy nên quá trình tiến hành tố tụng tại phiên tòa nhiều Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa chỉ thực sự tạo điều kiện đảm bảo sự công bằng, dân chủ cho các bên trong giai đoạn tranh luận, còn các giai đoạn trước đó như bắt đầu phiên tòa, giai đoạn xét hỏi thì Chủ tọa phiên tòa thường đóng vai trò chủ chốt, vài trò của Kiểm sát viên và nhất là của người bào chữa rất mờ nhạt. Thực tiễn cũng có trường hợp Luật sư đề nghị triệu tập thêm người làm chứng nhưng nếu người làm chứng đó đã có lời khai trong hồ sơ thì thường bị HĐXX không chấp nhận. Trong giai đoạn xét hỏi, vai trò chính vẫn là Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa.
Vấn đề tranh tụng trong phần tranh luận cũng có hạn chế là Chủ tọa phiên tòa để cho các bên tranh luận rất nhiều lần về cùng một vấn đề, nhiều vấn đề đã được các bên đối đáp rất nhiều lần nhưng Chủ tọa phiên tòa không “cắt” những ý kiến này. Nhiều phiên toà Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà còn lúng túng trong xử lý tình huống, chưa chủ động điều khiển quá trình tranh luận, đối đáp của các bên, chưa chủ động cho các bên đối chất tại phiên tòa nhất là đối với các vụ án có đông bị cáo và nhiều Luật sư tham gia nên mặc
dù thời gian tranh luận kéo dài nhưng chất lượng luận tội và bào chữa không cao, việc tranh luận, đối đáp của các bên không đi vào trọng tâm các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Nhiều vấn đề Luật sư, các bị cáo đưa ra yêu cầu nhưng Kiểm sát viên không đối đáp lại, việc đưa ra chứng cứ, lập luận bảo vệ quan điểm truy tố của Kiểm sát viên chưa có sức thuyết phục, chất lượng luận tội và đối đáp còn hạn chế hoặc bỏ sót nhưng Chủ toạ phiên toà cũng không nhắc nhở Kiểm sát viên đối đáp lại những vấn đề bỏ sót hoặc phải đối đáp lại vấn đề mà Luật sư, bị cáo vừa đưa ra.
BLTTHS 2003 đã quy định: “Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó trình bày về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ” (Điều 210). Nhưng thực tiễn cho thấy nhiều vụ án, do hạn chế về thời gian mà thủ tục này bị vi phạm, các đương sự được trình bày hoặc trình bày không hết ý kiến của mình. Thậm chí có trường hợp họ cũng không được xét hỏi ở giai đoạn trước đó. Đây là những vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng và cũng là vi phạm tinh thần của tranh tụng tại phiên tòa.
Bản án của nhiều vụ án còn chưa thể hiện được đầy đủ, cô đọng những vấn đề đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án không được chuẩn bị kỹ, nội dung những nhận định, đánh giá của HĐXX qua tranh tụng chưa được đưa vào làm căn cứ để quyết định, án văn viết vẫn không đúng mẫu, chất lượng án tuy có được nâng lên nhưng một số Thẩm phán án viết án vẫn chưa đạt yêu cầu trong tình hình hiện nay, Bản án, quyết định của HĐXX trong nhiều trường hợp vẫn còn hạn chế, nhất là lập luận chấp nhận hoặc không chấp nhận quan điểm của người bào chữa, nhiều trường hợp đánh giá một cách chung chung. Ví dụ vẫn còn Bản án ghi: “chấp nhận một phần ý kiến của Luật sư” mà không ghi rõ một phần ý kiến là ý kiến gì, như thế nào.
Công tác xét xử án hình sự tại cấp phúc thẩm cho thấy, còn có vụ án Bản án sơ thẩm áp dụng hình phạt không đúng theo khoản của BLHS quy
định. Bên cạnh đó việc xem xét, đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS chưa đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Trong những năm qua, vẫn còn những vụ án mà Toà án sơ thẩm cho bị cáo được hưởng án treo còn thiếu căn cứ, chưa đủ các điều kiện để được hưởng án treo theo hướng dẫn của TAND tối cao. Do vậy, Toà án phúc thẩm phải huỷ hoặc sửa án sơ thẩm.
Về sự tham gia của Luật sư trong tranh tụng tại phiên tòa, qua bảng thống kê 2.2 và biểu đồ 2.2 cho thấy số lượng vụ án có Luật sư tham gia còn chiếm tỉ lệ nhỏ (khoảng từ 24% đến 37 % tổng số vụ án có Luật sư tham gia theo chỉ định và khoảng từ 5% đến 7% tổng số vụ án có Luật sư tham gia theo yêu cầu). Trong số các vụ án có Luật sư tham gia, phần lớn là những vụ án cần phải có sự tham gia của Luật sư và Tòa án tiến hành chỉ định Luật sư cho các bị cáo và những Luật sư được chỉ định này thường chỉ chuẩn bị sẵn một bản luận cứ để trình bày tại phiên tòa mà không hoặc ít có ý kiến tranh luận đối đáp tại phiên tòa. Luật sư ít tham gia vào tranh tụng, số lượng Luật sư được bị cáo mời chiếm tỉ lệ quá nhỏ chứng tỏ chất lượng tranh tụng chưa đạt được yêu cầu đặt ra trong chiến lược nâng cao tranh tụng tại phiên tòa.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Xét Xử Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Bắc Ninh Giai Đoạn 2008-2013:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 9
- Thực Trạng Hoạt Động Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Bắc Ninh Giai Đoạn 2008 – 2013:
- Quan Điểm Của Đảng, Nhà Nước Về Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Trong Xét Xử Vụ Án Hình Sự.
- Nâng Cao Trình Độ, Kĩ Năng Điều Khiển Tranh Tụng Của Thẩm Phán, Hội Thẩm Nhân Dân:
- Nâng Cao Chất Lượng Của Kiểm Sát Viên Trong Hoạt Động Tranh Tụng Tại Phiên Tòa:
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
- Thứ nhất, những quy định của pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa chưa được ghi nhận là một nguyên tắc trong TTHS. Do đó, nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, những người trực tiếp tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng chưa thấy được ý nghĩa, vai trò cả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, chưa nắm vững tinh thần tranh tụng tại phiên tòa nên quá trình triển khai hoạt động tranh tụng tại phiên tòa chưa theo một quy trình chặt chẽ, chưa có sự nhận thức thống nhất về bản chất, cách thức và phạm vi của vấn đề tranh tụng, dẫn đến chất lượng tranh tụng phần nào bị hạn chế.
Thực tiễn công tác xét xử gặp vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật mới liên quan tới hoạt động của hệ thống TAND chưa được hướng dẫn áp dụng pháp luật kịp thời, đầy đủ làm ảnh hưởng nhất định tới chất lượng, hiệu quả hoạt động trên thực tế.
Trong BLTTS năm 2003 chưa quy định “tranh tụng” thành một nguyên tắc cơ bản của TTHS. Vì vậy nhiều quy định của BLTTHS hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu của tố tụng tranh tụng, chưa đủ cơ sở pháp lý đảm bảo cho các bên tham gia tranh tụng một cách thực sự, dân chủ, bình đẳng, dành quá nhiều quyền cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Ví dụ, Điều 19 có quy định bị cáo, người bào chữa có quyền bình đẳng với Kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu nhưng tại Điều 50, Điều 58 lại chỉ cho phép bị cáo, người bào chữa đưa ra tài liệu, đồ vật và tài liệu đồ vật này có được coi là chứng cứ hay không còn phụ thuộc vào sự đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng ở mỗi giai đoạn tố tụng giải quyết vụ án. Những người này cũng có quyền đưa ra tài liệu yêu cầu với Cơ quan điều tra, VKS về thu thập chứng cứ nhưng luật lại không quy định chế tài khi các cơ quan này không thực hiện yêu cầu đó, nên nhiều trường hợp yêu cầu của họ không được xem xét trả lời.
Một vấn đề nữa là luật còn quy định Thẩm phán, và Hội thẩm nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu kỹ hồ sơ do VKS chuyển sang, nắm chắc những chứng cứ, tài liệu trước khi đưa vụ án ra xét xử nên dù muốn hay không các thành viên HĐXX đều đã nhận thức sơ bộ về vụ án, định sẵn về tội trạng của bị cáo nên quá trình xét hỏi thường bị chi phối về hướng buộc tội, khó bị thuyết phục về độ tin cậy, chân thực của các tài liệu, đồ vật của phía bên bị buộc tội đưa ra.
Thứ hai, trình độ chuyên môn của Thẩm phán còn hạn chế.
Để đảm bảo chất lượng điều khiển tranh tụng tại phiên tòa đòi hỏi đội ngũ Thẩm phán phải nắm vững pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn và khả năng thực hành tốt. Qua một số phiên tòa thấy rằng, khi điều khiển phiên tòa nhiều Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa vẫn bảo thủ lối tư duy cũ, không đổi mới phương pháp, cách thức xét hỏi dẫn đến nội dung và thời gian dành cho Kiểm sát viên, Luật sư tham gia xét hỏi ngắn. Một số Thẩm phán còn lúng túng khi xử lý các tình huống xảy ra, nhất là khi tranh luận diễn ra căng thẳng giữa Kiểm sát viên và Luật sư. Nguyên nhân cơ bản thuộc về trách nhiệm của Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử các vụ án, tiếp đến là trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo thiếu kiểm tra, điều hành đơn vị nên ảnh hưởng tới việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Một số Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm khi nghiên cứu hồ sơ, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp trong khi các vụ án hình sự thể hiện tính chất ngày càng nghiêm trọng và phức tạp hơn với nhiều vụ án có đông người tham gia, nhiều vụ án hành vi của bị cáo diễn ra trên địa bàn rộng, ở nhiều địa phương khác nhau; các bị cáo chối tội quyết liệt dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ và quyết định hình phạt của HĐXX.
Theo tôi, việc nâng cao trình độ, kĩ năng điều khiển tranh tụng tại phiên tòa của đội ngũ Thẩm phán gặp nhiều vướng mắc do:
- Nhận thức của một bộ phận Thẩm phán về vấn đề tranh tụng trong cải cách tư pháp chưa thực sự đúng đắn, cụ thể: vẫn còn có tư tưởng cho rằng, tổ chức và hoạt động của Tòa án cũng giống như các cơ quan hành chính nhà nước, đã hình thành ổn định và đang vận hành bình thường; việc đổi mới hay cải cách là công việc thường xuyên, lâu dài của các cơ quan nghiên cứu, lãnh đạo ở cấp vĩ mô chứ chưa gắn liền với thực tiễn.
- Tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, Thẩm phán còn yếu; phong cách làm việc chậm đổi mới, không chịu rèn luyện, bị chủ nghĩa cá nhân chi phối; ở một bộ phận cán bộ, Thẩm phán còn hạn chế về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế chưa được cập nhật thường xuyên, tinh thần phục vụ nhân dân chưa được cao; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu nhân dân chưa được ngăn chặn triệt để, gây nên sự trì trệ, trở ngại không ít cho công cuộc cải cách tư pháp, ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.
- Chưa có nguồn kinh phí thường xuyên cho việc đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc và bảo đảm phù hợp với tranh tụng và cho hoạt động thường xuyên của ngành Tòa án. Chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức Tòa án chưa phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động xét xử.
Thứ ba, vai trò điều khiển tranh tụng của Toà án lại bị hạn chế bởi chính Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa.
Từ phía Kiểm sát viên: Khá nhiều phiên toà Kiểm sát viên chưa chủ động, tích cực tham gia phần xét hỏi. Mặc dù đã được Chủ tọa phiên toà nhắc nhở là đặt câu hỏi để chứng minh tội phạm và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án thì mới hỏi và cũng chỉ hỏi những câu mang tính chất bổ sung, lặp lại. Có những vụ án mặc dù đã được Chủ toạ nhắc nhở nhưng Kiểm sát viên chỉ phát biểu đúng một câu: “Xét thấy phần xét hỏi HĐXX đã làm rõ, đại diện VKS không cần hỏi thêm, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc”. Lý giải cho tình trạng này một số Kiểm sát viên cho rằng câu trả lời thụ động như trên cũng một phần do HĐXX đã thể hiện quá tích cực vai trò của mình tại phiên toà, đã đặt ra hết mọi câu hỏi cho bị cáo nên Kiểm sát viên không còn gì để hỏi. Rõ ràng trong những tình huống như vậy thể hiện Kiểm sát viên đã quen với vai trò thụ động, không tích cực tham gia vào các diễn biến tại phiên toà. Việc thụ động tham gia xét hỏi của Kiểm sát viên sẽ đẩy HĐXX vào tình thế khó khăn,
Toà án muốn ra bản án, quyết định có căn cứ và hợp pháp thì không còn cách nào khác là phải tích cực tham gia xét hỏi để xác định các tình tiết khách quan của vụ án.
Từ phía Luật sư bào chữa: Tổng số Luật sư trong toàn tỉnh là 40 Luật sư, trong số đó chỉ có 12 Luật sư tham gia tố tụng, như vậy số lượng Luật sư tham gia tranh tụng chỉ chiếm 30 % tổng số Luật sư của tỉnh. Số lượng này là quá ít so với lượng án và lượng bị cáo hằng năm TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh thụ lý, giải quyết, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó, chất lượng Luật sư còn hạn chế, chưa phát huy được hết quyền tranh tụng của Luật sư tại phiên tòa. Có trường hợp Luật sư lạm quyền của mình, bào chữa dài dòng, không tập trung vào vấn đề bào chữa, cố tình kéo dài nội dung vụ án. Mặc dù đã được HĐXX nhắc nhở nhưng vẫn cố tình lặp lại, khi HĐXX không cho trình bày thì lại cho rằng HĐXX hạn chế thời gian của Luật sư, không cho Luật sư nói, không đảm bảo việc tranh tụng tại phiên tòa.
Thứ tư, việc tổ chức thực hiện tranh tụng tại phiên tòa chưa đồng bộ, quyết liệt, cơ sở vật chất, trang thiết bị, trụ sở làm việc và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công chức Toà án, mặc dù đó được Nhà nước quan tâm nhưng vẫn còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
Tại phiên tòa, vị trí, quyền lực của người bào chữa cũng không được xác định tương xứng với VKS, luôn ở vị thế thấp hơn từ chỗ ngồi đến thứ tự xét hỏi, tranh luận. Trong khi phần lớn thời gian diễn ra phiên tòa là hoạt động của HĐXX, trong đó là Chủ tọa phiên tòa, thời gian dành cho Luật sư rất ít.
Kết luận chương 2
Trước xu thế chung của thế giới, việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hệ thống pháp luật để góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang thực hiện. Theo Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đưa ra những định hướng quan trọng của tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trên tinh thần Nghị quyết, vấn đề điều khiển tranh tụng trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở TAND tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều tiến bộ, phiên tòa từng bước đảm bảo, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Số lượng án hình sự từ năm 2008 đến 2003 ngày càng tăng nhưng không vì thế mà chất lượng giải quyết án đi xuống. TAND tỉnh Bắc Ninh đã đặt ra yêu cầu của việc tổ chức, điều khiển phiên tòa, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự đó là: Phải đảm bảo tính uy nghiêm, tính công bằng, dân chủ và nghiêm minh của pháp luật trên cơ sở thực hiện nghiêm túc các quy định của BLTTHS, đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Đặc biệt sau khi Hiến pháp 2013 được thông qua, tranh tụng được quy định là nguyên tắc của TTHS, TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã quán triệt sâu sắc trong toàn ngành và đang lập phương án đưa hoạt động tranh tụng vào thực tiễn xét xử vụ án hình sự đảm bảo có chất lượng.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh còn nhiều hạn chế, bất cập. Nguyên nhân chính do những quy định của pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp, tranh tụng chưa được