tố thì việc xét xử sẽ theo hướng của Tòa án, nên không đảm bảo sự khách quan. Chức năng của Tòa án trong TTHS là xét xử, có ý nghĩa là vai trò Tòa án là người trọng tài đứng giữa bên buộc tội và bên bào chữa để giải quyết vụ án. Bởi vậy, Tòa án chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý thuộc về chức năng xét xử. Khởi tố vụ án hình sự tuy chưa phải là buộc tội đối với một người cụ thể nhưng đó là nhiệm vụ thuộc về chức năng buộc tội. Mặt khác đây không thuộc chức năng xét xử của Tòa án mà thuộc phạm vi hoạt động quyền công tố. Hơn nữa, thực tiễn cho thấy những vụ án do HĐXX khởi tố hầu như không có. Cần phải phân rõ ràng chức năng buộc tội của VKS, chức năng bào chữa của Luật sư và chức năng xét xử của Tòa án, các chức năng này phải được các chủ thể tiến hành một cách độc lập. Do vậy, Điều 13, Điều 104 của BLTTHS quy định Tòa án có quyền khởi tố vụ án hình sự là chưa phù hợp. Nếu nhằm mục đích không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm thì chỉ nên quy định Tòa án được quyền yêu cầu VKS khởi tố vụ án nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội.
Điều 217 BLTTHS quy định về trình tự tranh luận theo đó bị cáo và người bào chữa phát biểu trước người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của họ. Tuy nhiên nên quy định bị cáo và người bào chữa phải là người phát biểu sau cùng, vì khi trình bày lời bào chữa, bị cáo và người bào chữa phải thể hiện quan điểm của mình không chỉ đối với lời luận tội của Kiểm sát viên mà còn đối với cả ý kiến của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của họ. Vì vậy, cần đổi vị trí giữa khoản 2 và khoản 3 của Điều 217 mới phù hợp với logic tranh luận.
Khoản 2 Điều 222 BLTTHS quy định: “Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội”. Cần bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 222 BLTTHS theo hướng Tòa án tuyên bản án vô tội đối với
bị cáo trong trường hợp có căn cứ xác định bị cáo không có tội hoặc việc truy tố không có căn cứ. Cụ thể: “Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tộihoặc
việc truy tố của Viện kiểm sát không có căn cứthì HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội”.
Ngoài ra cần quy định lại vị trí ngồi của Kiểm sát viên và người bào chữa tại các phiên tòa hình sự theo hướng để Luật sư được ngồi ở ghế đối diện, ngang bằng với Đại diện VKS. Quy định này thể hiện sự bình đẳng của Kiểm sát viên và Luật sư.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS hiện hành liên quan đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự có ý nghĩa quan trọng, góp phần thiết thực vào quá trình tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật; giải quyết các vấn đề vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự và cải cách hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự ở nước ta.
3.2.2. Nâng cao trình độ, kĩ năng điều khiển tranh tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân:
Trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp, việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và nâng cao chất lượng cho đội ngũ Thẩm phán ngành TAND nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, đặc biệt là Hiến pháp 2013, Nghị quyết số 08- NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong đó yêu cầu đối với công tác cán bộ là: “Rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh”[4], “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính
trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”[3] và “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực”…[3]. Để có thể xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ về số lượng, chất lượng, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, dũng cảm đấu tranh vì công lý và bảo vệ pháp chế XHCN, đúng như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”, cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Hoạt Động Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Bắc Ninh Giai Đoạn 2008 – 2013:
- Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế Trong Hoạt Động Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Bắc Ninh.
- Quan Điểm Của Đảng, Nhà Nước Về Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Trong Xét Xử Vụ Án Hình Sự.
- Nâng Cao Chất Lượng Của Kiểm Sát Viên Trong Hoạt Động Tranh Tụng Tại Phiên Tòa:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 15
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 16
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
Thứ nhất, nâng cao kĩ năng điều khiển tranh tụng đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân:
Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần có nhận thức thống nhất về khái niệm, nội dung và ý nghĩa của thuật ngữ “tranh tụng” là nguyên tắc của TTHS theo tinh thần cải cách tư pháp. Thẩm phán và Hội thẩm cần phải ý thức được rằng mình chính là người trọng tài vô tư, khách quan điều khiển quá trình tranh tụng giữa các bên tại phiên tòa. HĐXX cần luôn nhận thức được rằng “bản án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa”, tất cả tài liệu trong hồ sơ và các vấn đề đều phải thẩm tra tại phiên tòa, trong khi xét hỏi phải “thoát ra khỏi hồ sơ” để đưa ra những bản án, quyết định có sức thuyết phục.
Để điều khiển việc tranh tụng đạt kết quả theo ý muốn, đòi hỏi Chủ toạ phiên toà phải là người nắm chắc các quy định của BLTTHS; đọc kỹ hồ sơ vụ án; dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên toà và chủ động tìm biện pháp giải quyết khi tình huống đó xảy ra. Tại phiển tòa, Chủ toạ phiên toà chỉ giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng cho những người tham gia tố tụng, tuyệt đối không được giải thích, bình luận, đánh giá hành vi phạm tội, các tình tiết là yếu tố định tội, yếu tố định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, tình
tiết giảm nhẹ TNHS. Ví dụ: Không giải thích cho bị cáo nếu khai báo thành khẩn thì được giảm nhẹ hình phạt; không được nhận xét bị cáo ngoan cố; không được mạt sát hoặc có những lời lẽ có tính chất phê phán đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Trong phần xét hỏi tại phiên toà, Chủ tọa phiên toà không được hỏi nhiều mà chỉ nêu vấn đề để Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa hỏi. Trong quá trình xét xử Chủ tọa phiên toà là người chỉ huy, điều hành, Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa có quyền đưa ra những bằng chứng mới để chứng minh có tội cũng như chứng minh vô tội. Chủ tọa phiên toà phải nắm chắc các tình tiết đã được xét hỏi để điều khiển việc tranh luận không kéo dài mà vẫn bảo đảm tính chất tranh tụng khi xét xử. Xét hỏi theo một thứ tự hợp lý là một yêu cầu mà Chủ toạ phiên toà phải dự kiến trước, căn cứ vào các tình tiết của vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Để việc xét hỏi được hợp lý theo một thứ tự nhất định, tránh nhầm lẫn, trùng lặp, đối với vụ án có nhiều bị cáo bị truy tố về nhiều tội khác nhau, chủ toạ phiên toà nên quy về trường hợp vụ án có một bị cáo bị truy tố về một hành vi phạm một tội, tức là, xét hỏi hết hành vi này tội này đến hành vi khác, tội khác đối với một bị cáo và lần lượt cho đến hết các bị cáo trong vụ án.
Để thể hiện tính chất tranh luận trong khi xét hỏi từng người, Chủ toạ phiên toà chỉ nên hỏi bị cáo cũng như đối với những người tham gia tố tụng khác những câu hỏi có tính chất nêu vấn đề, còn lại những câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc gỡ tội, dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa. Trong quá trình điều khiển việc xét hỏi, Chủ toạ phiên toà phải thường xuyên theo dõi; nếu thấy câu hỏi có tính chất mớm cung, ép cung hoặc những câu hỏi có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, bí mật điều tra; xúc phạm
nhân phẩm, danh dự con người thì phải yêu cầu người hỏi đặt lại câu hỏi hoặc yêu cầu người trả lời không trả lời câu hỏi đó.
Tại phần tranh luận, Chủ tọa phiên tòa cần hướng cho các bên tranh luận đi vào từng chi tiết vụ án, sự đối đáp giữa hai bên phải diễn ra liên tục, phải tranh luận từng vấn đề rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát, không tranh luận chung chung, dàn trải. Viện kiểm sát là bên buộc tội, Luật sư là bên gỡ tội vì vậy họ phải có sự chủ động trong tranh luận tại phiên tòa, cần hỏi những người tham gia tố tụng để làm rõ các tình tiết của vụ án đặc biệt những vấn đề mà bị cáo, người làm chứng đưa ra tại phiên tòa có mâu thuẫn với những kết quả điều tra trước đó để trên cơ sở đó có lời luận tội, lời bào chữa khách quan, chính xác. Tránh việc Viện kiểm sát chỉ phát biểu là giữ nguyên quan điểm như đã truy tố mà không đưa ra lý lẽ, lập luận để bảo vệ quan điểm của mình. Do vậy, đây cũng là vấn đề mà trên thực tế đòi hỏi Chủ tọa phiên tòa phải định hướng để các bên tham gia tranh luận đạt hiệu quả, có như vậy mới đảm bảo chất lượng tranh tụng.
Theo Điều 192 BLTTHS năm 2003, thì người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án, ý kiến trùng lặp. Quy định này cũng không có nghĩa là hạn chế thời gian tranh luận mà chỉ hạn chế số lần phát biểu về ý kiến mà mình không đồng ý. Trong khi đó, một vụ án có nhiều vấn đề, nhiều tình tiết của vụ án có quan điểm đánh giá khác nhau. Vì vậy, Chủ toạ phiên toà phải chú ý xem những vấn đề được tranh luận có bao nhiêu ý kiến khác nhau, để điều khiển việc tranh luận giữa những người có ý kiến khác nhau về vấn đề đó; Chủ toạ phiên toà cần yêu cầu những người tham gia tranh luận nêu những vấn đề không đồng ý và tranh luận từng vấn đề một.
Để thể hiện tính chất tranh tụng, dân chủ, khách quan tại phiên toà, HĐXX và Chủ toạ phiên toà sẽ không công bố lời khai tại Cơ quan điều tra,
mà chỉ nên để Kiểm sát viên và người bào chữa công bố lời khai trong trường hợp quy định tại Điều 208 BTTHS. Trong trường hợp Kiểm sát viên hoặc Luật sư công bố lời khai tại Cơ quan điều tra mà người được lấy lời khai lại khai ra rằng họ bị Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên ép cung, mớm cung, nhục hình nên mới khai như vậy, thì Chủ toạ phiên toà có thể cho gọi Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đã lấy lời khai của họ tại Cơ quan điều tra đến phiên toà để đối chất; nếu người được lấy lời khai đưa ra những bằng chứng, nhân chứng để chứng minh rằng lời khai tại Cơ quan điều tra là sai thì Chủ tọa phiên toà cần yêu cầu nộp bằng chứng hoặc cho mời người làm chứng đến phiên toà để đối chất. Trong trường hợp không thể triệu tập được người làm chứng hoặc Điều tra viên đến phiên toà mà lời khai của bị cáo hoặc người tham gia tố tụng có căn cứ thì phải hoãn phiên toà trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Cùng với việc điều khiển việc xét hỏi, tranh luận giữa Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác, Chủ tọa phiên toà còn phải điều khiển việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và nhận xét hoặc báo cáo của các cơ quan, tổ chức. Cũng như điều khiển việc xét hỏi, tranh luận Chủ tọa phiên toà phải giữ thái độ thật khách quan, cần chú ý không đưa ra nhận xét của mình cũng như nhận xét của các thành viên trong HĐXX, những nhận xét của Chủ tọa phiên toà và của HĐXX chỉ được nêu và thảo luận trong phòng nghị án.
Tóm lại, để bảo đảm việc tranh tụng tại phiên toà dân chủ, khách quan, Chủ toạ phiên toà chỉ hướng dẫn, chỉ huy để việc tranh tụng diễn ra theo một trật tự nhất định. Vai trò của chủ toạ phiên toà được ví như “trọng tài chính trên sân cỏ”, mọi cử chỉ hành động của Chủ toạ phiên toà phải thể hiện tính dân chủ, khách quan, công minh; mọi nhận xét đánh giá của Chủ toạ phiên toà chỉ được thể hiện trong phòng nghị án và trong phận nhận xét của bản án.
Điều khiển tranh tụng tại phiên tòa pháp đảm bảo tính dân chủ, công khai nhưng phải thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Lấy trọng tâm là phục vụ cho lợi ích của nhân dân, phục vụ cho mục tiêu tôn trọng và bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền của con người, quyền công dân trong TTHS.
Thứ hai, hệ thống Toà án cần có biện pháp, lộ trình xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Trình độ, năng lực của Thẩm phán dù có giỏi đến đâu nhưng số lượng không đủ, công việc quá tải, áp lực công việc đè nặng thì hiệu quả chắc chắn không cao. Do vậy cần thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ cho Thẩm phán trước và sau khi bổ nhiệm, công việc này cần tiến hành thường xuyên. Trong điều kiện hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường cần phải đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng xét xử chuyên sâu cho thẩm phán, đặc biệt chú trọng đến kĩ năng điều khiển tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự. Bên cạnh đó, cần thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ Hội thẩm nhân dân; tăng cường bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng điểu khiển tranh tụng, phổ biến các văn bản pháp luật mới cho Hội thẩm nhân dân.
Tiếp tục tổ chức học tập, rút kinh nghiệm qua việc dự các phiên tòa hình sự với phương pháp, nội dung sâu sắc hơn. Mỗi thẩm phán, cán bộ Tòa án trong một ngày làm việc phải tự đặt ra yêu cầu cho mình dành một số thời gian nhất định để đọc, xem, nghiên cứu các văn bản pháp luật.
Thứ ba, bên cạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ công tác thì việc giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán tăng cường phục vụ nhân dân, chống tiêu cực là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Cần chú ý đến văn hóa ứng xử khi điều khiển tranh tụng của thẩm phán tại phiên tòa, chú trọng đến phong cách, khả năng diễn đạt để tăng sự uy
nghiêm của pháp luật, thực hiện tốt việc điều khiển tranh tụng tại phiên tòa. Vấn đề này tuy không được điều chỉnh bởi pháp luật nhưng nó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc điều khiển tranh tụng tại phiên tòa cũng như ảnh hưởng đến uy tín, vị thế của thẩm phán nói riêng, của ngành Tòa án nói chung [37].
Với việc bảo đảm các quan điểm, nguyên tắc cũng như triển khai toàn diện các giải pháp nêu trên, cùng với sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp từ Trung ương đến các địa phương chắc chắn chúng ta sẽ sớm xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng điều khiển tranh tụng taih phiên tòa, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, cũng như sự nghiệp đổi mới và quá trình hội nhập quốc tế ở nước ta.
3.2.3. Mở rộng, nâng cao quyền bào chữa:
Chức năng bào chữa trong TTHS xuất hiện đồng thời với chức năng buộc tội, như một phản ứng tự nhiên của con người nhằm chống lại sự buộc tội "khi nào các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo có khả năng bị vi phạm khi đó họ có quyền bào chữa” [17]. Việc mở rộng phạm vi bào chữa có vai trò quan trọng để ngày càng có nhiều vụ án có sự tham gia của người bào chữa bởi thực tế chỉ các phiên tòa có sự tham gia của người bào chữa thì việc tranh tụng mới có chất lượng, thực chất tranh tụng. Cụ thể:
Thứ nhất, Điều 56 BLTTHS đã hạn chế khả năng lựa chọn người bào chữa của bị can, bị cáo khi không quy định những thân thích của bị can, bị cáo (như ông, bà, cha mẹ, anh chị em ruột... có trình độ cử nhân luật) có thể là người bào chữa cho họ. Vì vậy, tôi cho rằng cần mở rộng diện những người có thể là người bào chữa bằng cách bổ sung thêm cụm từ “hoặc người thân thích” vào sau cụm từ “người đại diện hợp pháp” ở điểm b khoản 1 Điều 56 BLTTHS. Sự mở rộng này cũng phù hợp với quy định tại khoản 2 của Điều luật này vì họ không thuộc diện những người không được bào chữa cho bị can, bị cáo.
Thứ hai, mở rộng phạm vi tham gia tố tụng của người bào chữa cho bị