diện của doanh nghiệp nước ngoài trong các ngành dọc. Hai nghiên cứu này đã đưa ra được bằng chứng thực nghiệm về sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến quyết định xuất khẩu. Hai nghiên cứu trên đây đã có những đóng góp mới khi vận dụng mô hình chọn mẫu Heckman để đo lường cả hai quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Kỹ thuật định lượng này có thể đo lường được hai quyết định có liên quan và loại bỏ thiên lệch lựa chọn mẫu do một thực tế rằng nếu không tham gia xuất khẩu thì hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp khó có thể quan sát được. Nếu thiên lệch lựa chọn mẫu này không được loại bỏ thì có thể đưa đến những kết quả ước lượng thiếu chính xác (Heckman, 1979). Tuy nhiên, hai nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở việc kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa và chỉ ra các kênh lan tỏa mà chưa đưa ra được những gợi ý chính sách nhằm phát huy hiệu ứng lan tỏa tích cực, hạn chế các lan tỏa tiêu cực từ FDI.
Trong khi những nghiên cứu khác phân tích ảnh hưởng của tác động lan tỏa FDI đến nền kinh tế quốc gia sở tại thì các nghiên cứu trên lại tách riêng ra thành tác động lan tỏa công nghệ và xuất khẩu. Việc phân chia đó nhằm đi sâu hơn về một mặt của hiệu ứng lan tỏa giúp các nhà hoạch định đưa ra được chiến lược dựa trên mục tiêu là nhằm thu lợi từ lan tỏa công nghệ hay lan tỏa xuất khẩu. Tuy nhiên, mô hình OLS và dạng dữ liệu chéo cũng là hai hạn chế của hai nghiên cứu.
Nghiên cứu của Yilin Zhang (2020) cho trường hợp của Trung Quốc. Các tác giả kiểm sự ảnh hưởng theo độ trễ của thời gian của công nghệ, nguồn nhân lực, chuyển đổi thể chế tới hiệu ứng lan tỏa của FDI. Mô hình nghiên cứu được sử dụng là mô hình VAR và dữ liệu dạng bảng để xem xét sự ảnh hưởng của các yếu tố này tới hiệu ứng lan tỏa của FDI và từ đó tác động như thế nào tới sự tăng trưởng kinh tế. Kết quả chỉ ra rằng công nghệ có ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, thông qua việc học hỏi và cạnh tranh trong ba năm đầu tiên, các doanh nghiệp địa phương cuối cùng đã được hưởng lợi đầy đủ từ sự lan tỏa công nghệ trong năm thứ ba. Sau đó, tác động thúc đẩy của FDI của Trung Quốc đối với hiệu quả kỹ thuật giảm dần, cho thấy rằng giai đoạn đầu là giai đoạn chuẩn bị và năm thứ hai đến năm thứ tám là giai đoạn quan trọng nhất để các doanh nghiệp địa phương học hỏi và cải thiện. Sau khi đầu tư vào nước sở tại, các công ty con của các tập đoàn xuyên quốc gia hợp tác với các doanh nghiệp địa phương tại Trung Quốc, cạnh tranh để giành thị trường và nguồn lực, dần
dần thay đổi môi trường thị trường địa phương. Trong môi trường thị trường mới, các quy tắc và luật lệ sẽ được sửa đổi dần dần để thích ứng với môi trường thị trường mới, và quá trình này diễn ra tương đối chậm. Sau khi vào nước sở tại, các doanh nghiệp FDI tạo điều kiện cải thiện vốn nhân lực nội địa thông qua các hiệu ứng lan tỏa và mối tương quan luân chuyển vốn con người giữa các doanh nghiệp, mất khoảng 4 năm. Sau đó, tác động lan tỏa này suy yếu dần, nhưng nó vẫn tồn tại trong một thời gian dài.
Le Thanh Thuy (2005), nghiên cứu hiệu ứng lan tỏa từ các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong giai đoạn 1995-1999 và 2000-2002. Tác giả đã khảo lược các nghiên cứu trước đó của Caves (1974), Globerman (1979), Blomstrom và Person (1983), Kokko (1994) để xây dựng mô hình hồi quy. Cả phương pháp ước lượng tác động cố định (FEM) và ước lượng ngẫu nhiên (REM) được sử dụng giúp kiểm soát được khả năng thiên lệch ước lượng so với phương pháp OLS. Kết quả nghiên cứu chỉ ra có tồn tại tác động lan tỏa từ các doanh nghiệp FDI đến nền kinh tế. Tuy nhiên hiệu ứng lan tỏa còn chịu ảnh hưởng bởi khoảng cách công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Và có tồn tại tác động tiêu cực theo chiều ngang do hiệu ứng cạnh tranh mang lại. Từ đó tác giả cũng có đưa ra một số gợi ý định hướng nhằm thúc đẩy lan tỏa công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ sử dụng dữ liệu cấp ngành với cỡ mẫu khá nhỏ đã phần nào hạn chế kết quả ước lượng vì hiệu ứng lan tỏa thường xuất phát từ những tương tác cấp vi mô giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.
Trong một nghiên cứu gần đây, Newman (2014) phân tích tác động lan tỏa của FDI đến năng suất của doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam, trong đó tập trung vào kênh lan tỏa theo chiều dọc. So với các nghiên cứu trước cho Việt Nam, nghiên cứu của Newman và cộng sự (2014) sử dụng mẫu nhỏ hơn gồm 7,500 doanh nghiệp được thu thập từ các cuộc điều tra năng lực cạnh tranh và công nghệ của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cho giai đoạn 2009-2011. Nghiên cứu có đóng góp mới khi kiểm định và tách biệt hiệu ứng lan tỏa trực tiếp (qua chuyển giao công nghệ) và hiệu ứng lan tỏa gián tiếp của FDI. Kết quả ước lượng cho thấy tồn tại lan tỏa tích cực từ kênh liên kết ngược trong khi kênh liên kết xuôi tạo ra lan tỏa tiêu
cực. Ngoài ra, doanh nghiệp FDI với hình thức liên doanh tạo ra nhiều tác động lan tỏa tích cực hơn so với doanh nghiệp 100% vốn FDI.
Anitta Phommahaxay (2013) nghiên cứu tác động của nguồn vốn FDI đến ngành chế tạo tại Lào trong giai đoạn 1990-2011, Chanthavone Chanthavong (2010) nghiên cứu hiệu ứng lan tỏa chỉ đối với lĩnh vực ngân hàng trong giai đoạn 2004-2015. Phouthakannha Nantharath (2014) lại nghiên cứu hiệu ứng lan tỏa tập trung vào ngành sản xuất trong giai đoạn 1993-2015.
Cả ba nghiên cứu đều phân tích hiệu ứng lan tỏa dựa trên mô hình của Caves (1974) và Globerman (1979). Nhưng Anitta Phommahaxay (2013) áp dụng phương pháp OLS chỉ tập trung vào biến tỷ trọng lao động, Kết quả đã chỉ ra có tác động tích cực từ FDI đến năng suất doanh nghiệp và tác động tiêu cực từ nguồn nhân lực đến sự phát triển kinh tế. Điểm hạn chế của nghiên cứu này là mới chỉ chứng minh ảnh hưởng của nguồn vốn FDI đến năng suất của doanh nghiệp chế tạo mà chưa đi sâu nghiên cứu vào hiệu ứng lan tỏa theo chiều ngang và chiều dọc. Chanthavone Chanthavong (2010) lại sử dụng phương pháp theo mô hình FEM, REM nhưng chỉ tập trung vào ngành ngân hàng và bộ số liệu với cỡ mẫu nhỏ chỉ bao gồm 33 quan sát, không đưa ra được cái nhìn chính xác về ảnh hưởng lan tỏa của FDI đến sự phát triển của kinh tế - xã hội mà chỉ đưa ra được ảnh hưởng trong nội bộ ngành.
Phouthakannha Nantharath (2014) cũng sử dụng phương pháp theo mô hình FEM, REM đưa ra kết luận rằng FDI đầu tư vào lĩnh vực sản xuất là yếu tố quan trọng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Từ đó, tác giả đưa ra một số gợi ý giải pháp để tăng cường tác động tích cực của FDI như về phía chính phủ cần đưa ra các chính sách khuyến khích đầu tư để đa dạng hóa đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt là đối với lĩnh vực sản xuất; tự do hóa thương mại, xóa bỏ các rào cản đầu tư và đặt ra một mức lương cho người lao động một cách hợp lý để giảm chi phí sản xuát và kích thích tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu đã tập trung vào xem xét nguồn gốc của các doanh nghiệp FDI có thể giải thích mức độ lan tỏa cho các doanh nghiệp địa phương như thế nào. Javorcik và Spatareanu (2011) đã tìm thấy mối liên hệ tích cực giữa sự hiện diện của các doanh nghiệp Mỹ trong lĩnh vực sử dụng nguồn đầu vào và năng
suất của các doanh nghiệp Rumani trong các ngành cung ứng, nhưng không tìm thấy mối quan hệ đáng kể nào trong trường hợp các chi nhánh doanh nghiệp của châu Âu. Nghiên cứu quốc gia xuất xứ của nguồn vốn FDI ở Cộng hòa Séc đã tìm thấy có sự lan tỏa theo chiều ngang từ nguồn vốn FDI đến từ các nước thành viên liên minh châu Âu (European Union – EU) (Ayyagari & Kosová, 2010). Tại Việt Nam, Ni và cộng sự (2017) cho thấy mối quan hệ tích cực giữa sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI đến từ châu Á trong các ngành sử dụng đầu vào của địa phương và năng suất của các doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp cung ứng này. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng cho thấy mối quan hệ trở nên không đáng kể khi có sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI đến từ châu Âu và Bắc Mỹ. Tại Indonesia, sự hiện diện của doanh nghiệp nước ngoài làm tăng hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp sản xuất (Suyanto và cộng sự, 2014) nhưng lại làm giảm hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp trong ngành dược (Suyanto & Salim, 2013). Ở Trung Quốc, liên kết ngược của các doanh nghiệp nước ngoài giúp cải thiện hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp trong nước (Wang & Wong, 2016)
1.1.2. Các nghiên cứu theo chiều lan tỏa của FDI đến các doanh nghiệp nội địa
1.1.2.1. Nghiên cứu về tác động lan tỏa theo chiều ngang
Tác động lan tỏa của FDI theo chiều ngang (nội bộ ngành) (biến Horizontal) được định nghĩa là những tác động có lợi của FDI tới các doanh nghiệp trong nước hoạt động trong cùng ngành, cùng lĩnh vực. Những tác động này có thể làm thay đổi công nghệ, tăng cường khả năng cạnh tranh, cải thiện nguồn lực hoặc thay đổi kỹ năng quản trị trong các nước (Javorcik, 2004; Kokko, 1994; Blomstrom & Sjoholm, 1999; Keller & Yearple, 2003). Đôi khi các doanh nghiệp nội địa cạnh tranh với các doanh nghiệp đa quốc gia, do những bất lợi về công nghệ, các doanh nghiệp này không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp đa quốc gia nên không thể xảy ra ảnh hưởng lan tỏa. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra do việc bảo hộ tri thức, bí mật thương mại, chi trả tiền lương cao hơn đối với những ngành mà quốc gia nhận đầu tư bị hạn chế về khả năng bắt chước công nghệ. Cụ thể, trong nghiên cứu của Javorcik (2004) nghiên cứu về tác động lan tỏa của FDI tại các nước đang phát triển, tác giả kết luận rằng tác động lan tỏa của FDI có thể mang đến những thay đổi về công nghệ, tăng
khả năng cạnh tranh, cải thiện nguồn lực hoặc thay đổi kỹ năng công việc và khả năng quản trị của các doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên các nghiên cứu về ảnh hưởng gia tăng sự hiện diện của FDI hầu như không đạt được kết quả nhất quán. Trong khi Kokko (1994), Blomstrom và Sjohlm (1999), Keller và Yeaple (2003) đưa ra kết luận rằng có sự lan tỏa tích cực theo chiều ngang của FDI đến các doanh nghiệp trong nước cùng ngành, thì Haddad và Harrison (1993) lại khẳng định không có tác động này, và Aitken và Harrison (1999) lại tìm thấy tác động tiêu cực cho các doanh nghiệp của Venezuela.
Tác động lan tỏa trong nội bộ ngành không chỉ có tác động tích cực mà còn có tác động tiêu cực vì mang tính chất cạnh tranh giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước để chiếm lĩnh thị trường. Theo Aitken và Harrison (1999), cạnh tranh sẽ khiến cho các doanh nghiệp nội địa thiếu nguồn lực bị cắt giảm sản lượng, thu thẹp thị trường, thậm chí phá sản. Ngoài ra dịch chuyển lao động cũng là một trong những kênh lan tỏa theo chiều ngang quan trọng, khi lao động chuyển sang làm từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước sẽ mang kiến thức, kinh nghiệm, tay nghề theo và từ đó làm tăng năng suất doanh nghiệp.
Một nghiên cứu gần đây tập trung vào tác động lan tỏa theo chiều ngang từ các doanh nghiệp nước ngoài đến các doanh nghiệp nội địa là nghiên cứu của Shi He và cộng sự (2019). Bộ dữ liệu được sử dụng gồm 1018 ước tính từ 41 nghiên cứu về hiệu ứng lan tỏa củ FDI theo chiều ngang tại Trung Quốc. Mục tiêu chính của của nghiên cứu là tổng hợp một cách định lượng các ước tính được báo cáo và giải thích cho sự không đồng nhất trong các kết quả thực nghiệm hiện có bằng cách sử dụng phân tích hồi quy meta. Kết quả chỉ ra rằng: (1) mức độ lan tỏa theo chiều ngang trung bình ở Trung Quốc là tích cực và có ý nghĩa thống kê; (2) tác động lan tỏa theo chiều ngang khác nhau giữa các phân nhóm vốn FDI được đặc trưng bởi bản chất của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nguồn gốc của nguồn vốn đầu tư nước ngoài và cơ cấu sở hữu của nguồn vốn trong nước.
1.1.2.1. Nghiên cứu về tác động lan tỏa theo chiều dọc
(i) Lan tỏa theo chiều ngược
Các mối liên kết ngược (Backward Linkages) xảy ra khi các doanh nghiệp FDI mua hàng hóa và dịch vụ từ doanh nghiệp trong nước trong các ngành công nghiệp thượng nguồn. Những ảnh hưởng lan tỏa như vậy xảy ra thông qua chuyển giao tri thức trực tiếp từ các khách hàng nước ngoài tới nhà cung cấp bản địa, những yêu cầu cao hơn về chất lượng sản phẩm và cung cấp hàng hóa đúng thời hạn mà các doanh nghiệp đa quốc gia đặt ra khiến cho các nhà cung cấp nội địa có động cơ cập nhật công nghệ và quản lý sản xuất tốt hơn (Javorcik, 2004; Schoors & van de Tol, 2002; Blalock & Gertler, 2008). Trong đó nghiên cứu của Javorcik (2004) cho rằng mối liên kết ngược của doanh nghiệp FDI phụ thuộc vào quyết định mua sắm của họ. Ban đầu, các doanh nghiệp này thường sử dụng đầu vào tại nước chủ nhà khi họ chỉ cần những nguồn đầu vào tương đối đơn giản. Mua sắm trong nước có xu hướng tăng dần theo thời gian khi họ tích lũy được những kinh nghiệm đầu tư, nâng cấp được các yếu tố nội địa tại chỗ và có thể hạ thấp được chi phí mua sắm, chi tiêu nội địa (Javorcik, 2004).
Bên cạnh đó, sự đòi hỏi về đầu có chất lượng cao của doanh nghiệp FDI đã tạo động lực thúc đẩy các nhà cung cấp trong nước phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Việc này được thực hiện thông qua các kế hoạch R&D, đào tạo lao động, hay chuyển giao công nghệ. Các doanh nghiệp FDI phần nào hỗ trợ các nhà cung cấp trong nước về chương trình đào tạo hay kỹ năng công nghệ để tạo ra được sản phẩm đáp ứng nhu cầu của họ (Balock và Gertler, 2008)
(ii) Lan tỏa theo chiều xuôi
Các nghiên cứu của Javorcik (2004) và Rodriguez (1996) cho trường hợp Lithhuania và Mỹ chỉ ra có sự ảnh hưởng tiêu cực từ nha cung cấp FDI đến các doanh nghiệp trong nước. Sự có mặt của FDI có thể đem khó khăn cho các doanh nghiệp nội địa khi họ cũng cung cấp các nguồn đầu vào tương tự như các doanh nghiệp nội địa. Và điều đó sẽ dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực theo chiều xuôi. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của Caves (1974), Globerman (1979) hay Blomstrom (1983) lại chỉ ra có sự tác động tích cực từ nhà cung cấp FDI đến khách hàng trong nước. Sự có mặt của FDI là nhà cung cấp phần nào đã giảm năng suất của các doanh nghiệp trong nước.
Lan tỏa theo chiều xuôi tích cực xảy ra khi doanh nghiệp FDI đầu tư cho doanh nghiệp nội địa nhằm cải tiến công nghệ, giảm đầu vào chi phí trung gian cho các sản phẩm. Các doanh nghiệp FDI hướng vào thị trường nội địa thường mua nhiều hơn nguyên liệu trong nước do những yêu cầu thấp hơn về chất lượng cũng như chỉ tiêu kỹ thuật. (Rodriguez, 1996).
Một trong những nghiên cứu gần đây về hiệu ứng lan tỏa FDI theo chiều lan tỏa bao gồm chiều ngang, chiều ngược, chiều xuôi đó là nghiên cứu của Arif Rahman và Kazuo Inaba (2021). Nghiên cứu xem xét cả tác động lan tỏa theo chiều ngang và chiều dọc (cả chiều ngược và chiều xuôi) của các doanh nghiệp FDI tại Bangladesh và so sánh với kết quả ở Việt Nam. Mô hình được sử dụng dựa trên hàm sản xuất Cobb-Douglas cho dữ liệu cấp doanh nghiệp và sử dụng phương pháp OLS để ước lượng. Các tác giả tìm thấy bằng chứng chỉ ra rằng các doanh nghiệp Bangladesh cải thiện năng suất thông qua liên kết nội ngành hoặc liên kết ngang, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam đạt được thông qua liên kết ngược. Việc gia tăng sự hiện diện của nước ngoài trong cùng một ngành đối với Bangladesh và trong các ngành hạ nguồn của Việt Nam có liên quan đến sự gia tăng sản lượng của các doanh nghiệp trong nước.
Bảng 1.1. Tóm tắt các nghiên cứu chung về hiệu ứng lan tỏa của FDI đến các doanh nghiệp nội địa
Tác giả | Quốc Gia | Kết luận chung | Hạn chế | |
Mô hình Cobb-Douglas Phương pháp ước lượng OLS | Caves (1974) | Australia (1962 và 1966) | Có sự lan tỏa tích cực từ FDI | Phương pháp OLS có thể cho kết quả không chính xác |
Globerman (1979) | Canada (năm 1972) | Có sự lan tỏa tích cực từ FDI | Phương pháp OLS có thể cho kết quả không chính xác | |
Dữ liệu chéo hạn chế độ tin cậy | ||||
Aitken và Harrison (1999) | Venezuela (1976-1989) | Có sự lan tỏa tiêu cực đối với các doanh nghiệp nhỏ | Phương pháp OLS có thể cho kết quả không chính xác | |
Dữ liệu chéo hạn chế độ tin cậy | ||||
Juraj Stancik (2007) | Cộng Hòa Séc (1993-2004) | Có sự lan tỏa tiêu cực theo chiều ngang, và chiều ngược | Phương pháp OLS có thể cho kết quả không chính xác | |
Không có sự lan tỏa theo chiều xuôi | Dữ liệu chéo hạn chế độ tin cậy | |||
Chengchun Li và Yun Luo (2018) | West Midlands, Anh (2004- 2011) | Có sự lan tỏa tích cực theo chiều xuôi và tiêu cực theo chiều ngang | Phương pháp OLS có thể cho kết quả không chính xác | |
Không có sự lan tỏa theo chiều ngược | Dữ liệu chéo hạn chế độ tin cậy |
Có thể bạn quan tâm!
- Hiệu ứng lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại tỉnh Savannakhet, Lào - 1
- Hiệu ứng lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại tỉnh Savannakhet, Lào - 2
- Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Tới Đề Tài
- Cơ Sở Lý Thuyết Về Hiệu Ứng Lan Tỏa Của Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
- Hiệu Ứng Lan Tỏa Ngang, Ngược, Xuôi Trong Chuỗi Cung Ứng
- Mối Quan Hệ Giữa Lan Tỏa Công Nghệ, Dịch Chuyển Lao Động Hoạt Động R&d Với Đầu Ra Của Doanh Nghiệp