phần. Cổ phần hóa diễn ra gần được 15 năm nhưng tương ứng với mỗi giai đoạn lại chỉ có những nghị định, quy định về cổ phần hóa hoặc là sắp xếp đổi mới DNNN. Đó là một nguyên nhân dẫn tới việc quá trình cổ phần hóa không có được một cơ chế pháp luật một điều kiện cần để thực hiện cổ phần hóa.
Việc giải quyết các thủ tục pháp lý để tạo điều kiện cho DN tiến hành cổ phần hóa còn chậm. Các thủ tục về pháp lý về nhà xưởng, đất đai, xác định vốn, chuyển đổi vốn ở các DN sử dụng những tài sản Nhà nước còn do nhiều cơ quan quản lý do đó dễ dẫn tới sự đùn đẩy trách nhiệm và tranh giành về lợi ích. Quy trình cổ phần hóa còn rườm rà, phức tạp, nhiều thủ tục phiền phức, tốn kém và chậm được cải tiến.
Cho đến nay, quá trình Cổ phần hóa còn chưa có một phương hướng chiến lược rõ ràng, trong mỗi giai đoạn hay cụ thể là mỗi năm lại có kế hoạch đề ra nhưng hoàn thành được kế hoạch là ít khi làm được. Trên thực tế, Chính phủ dường như đi theo con đường cổ phần hóa những doanh nghiệp nhỏ trước, các doanh nghiệp lớn sau do đó nguồn vốn được tạo ra không phải là lớn vì tỷ lệ các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm phần nhỏ trong số các doanh nghiệp được Cổ phần hóa.
3.4 Nguyên nhân về mặt tài chính và tư tưởng
Mặc dù Nhà nước đã có chủ trương chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần nhưng chủ trương này vẫn chưa được các cấp, ngành, địa phương hưởng ứng tích cực. Ở một số địa phương, các DNNN chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của chủ trương CPH DNNN, lo ngại cổ phần hóa làm mất đi quyền hành của mình. Với người lao động, do chưa hiểu rõ về thực chất và lợi ích của quá trình cổ phần hóa nên họ lo sợ công việc và thu nhập của họ không được đảm bảo như được Nhà nước hỗ trợ. Đối với Doanh nghiệp còn rất nhiều doanh nghiệp còn chậm trễ khi quyết định cổ phần hóa vì họ lo sợ mất đi quyền điều hành Doanh nghiệp. Với một số Bộ, Tỉnh và Thành phố vẫn muốn có trong tay mình một số
DNNN đáng kể để chi phối, nếu CPH sẽ mất đi cái quyền chi phối cũng như giá trị mà những DNNN mang lại chính vì vậy việc chỉ đạo và phối hợp của các cấp chính quyền không đồng bộ điều này làm giảm đi tốc độ cổ phần hóa ngay từ những khâu ban đầu.
Có tình trạng phân biệt đối xử giữa các DNNN và các doanh nghiệp đã Cổ phần hóa nhất là tại các tổ chức tín dụng ngân hàng. Việc tìm đối tác liên doanh liên kết ở các công ty cổ phần cũng gặp nhiều khó khăn. DNNN vẫn được ưu đãi nhiều hơn, một số làm ăn thua lỗ vẫn được vay không phải trả lãi, bù lỗ từ ngân sách Nhà nước và một số ưu đãi khác. Tất cả đều tác động lớn tới tâm lý các DN chuẩn bị cổ phần hóa.
3.5 Nguyên nhân từ các yếu tố kinh tế - xã hội
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường với điểm xuất phát thấp, chịu ảnh hưởng của cơ chết tập trung quan liêu bao cấp. Các yếu tố cần có của một nền kinh tế thị trường còn đang trong quá trình hình thành. Cả nước có hơn 40.000 DN nhưng hoạt động của những doanh nghiệp này chưa thật sự thương mại hóa. Nguồn vốn cung ứng chủ yếu từ tích lũy, nguồn vốn vay ngân hang mà chưa nghĩ ra việc huy động vốn từ nguồn tài chính khác như phát hành cổ phiếu để thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong thị trường. Thị trường chứng khoán ở nước ta, tuy đã bắt đầu được 10 năm nhưng vẫn còn nhiều sơ khai đặc biệt là thời gian khủng hoảng kinh tế vừa qua, làm cho thị trường chững lại. Các yếu tố này chưa phải là những điều kiện đầy đủ để có thể phát triển mạnh quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam.
CHƯƠNG III
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Chung Về Cổ Phần Hóa Doanh Nghiệp Nhà Nước
- Tác Động Của Cổ Phần Hóa Tới Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
- Những Vướng Mắc Về Pháp Luật Và Cơ Chế Chính Sách
- Cổ Phần Hóa Phải Kết Hợp Với Phát Triển Thị Trường Chứng Khoán
- Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp thực hiện - 11
- Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp thực hiện - 12
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
I. ĐỊNH HƯỚNG CỦA NHÀ NƯỚC VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Những phân tích nêu trên về tác động và thực trạng của cổ phần hóa DNNN cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục tiến hành cổ phần hóa khối doanh nghiệp này trong giai đoạn tới. Tình hình kinh tế hiện nay cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán trong giai đoạn gần đây bị chững lại, mà doanh nghiệp CPH là nguồn cung cho thị trường chứng khoán, Nhà nước cần phải đẩy mạnh hơn nữa chương trình cổ phần hóa DNNN. Sự cần thiết phải thúc đẩy chương trình cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước bắt nguồn chủ yếu từ thực tế tiến độ cổ phần hóa những năm vừa qua tuy có những bước phát triển, song song với yêu cầu đổi mới kinh tế thì vẫn chưa thật sự đáp ứng.
Nghị quyết hội nghị TW Đảng khóa IX đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực Doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa…”, “Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, mở rộng diện các DN Nhà nước cổ phần, kể cả một số Tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng vào bảo hiểm”. Những định hướng cho tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN trong đó chủ yếu là cổ phần hóa trong các giai đoạn cụ thể.
Mặc dù nhiệm vụ và mục tiêu cổ phần hóa các Tổng công ty Nhà nước đã được đề ra trong giai đoạn 2006 – 2010 nhưng trên thực tế việc tiến hành CPH những công ty này còn rất chậm do quy mô và cấu trúc phức tạp. Chính
vì vậy, trong giai đoạn tới Nhà nước vẫn chủ trương tiến hành Cổ phần hóa chủ yếu nhằm vào những doanh nghiệp lớn này.
Theo dự tính của Chính phủ, đến năm 2015 sẽ cổ phần hóa khoảng 1000 doanh nghiệp không phân biệt quy mô, trong đó có Tập đoàn dệt may Việt Nam. Việc CPH những doanh nghiệp hàng đầu này đồng nghĩa với việc Việt Nam đã đưa đến cho nhà đầu tư nước ngoài những cơ hội để họ tham gia đầu tư vào Việt Nam. Theo ông Phạm Viết Muôn, Phó trưởng ban chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp đã đưa ra quan điểm về cơ chế chính sách như vậy. Về cụ thể của chủ trương của Đảng và Nhà nước được tiến hành theo định hướng sau.
1. Đẩy mạnh cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước
Các tổng công ty Nhà nước là lực lượng chủ lực trong nền kinh tế quốc dân, việc cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty là vấn đề mới mẻ, hệ trọng, khó khăn và phức tạp. Vì vậy, cần phải có quan điểm, phương pháp, bước đi phù hợp, chắc chắn, giữ vững ổn định sản xuất, không gây tác động đến môi trường đầu tư, đời sống người lao động và xã hội. Khẩn trương phân loại rõ những tập đoàn, tổng công ty Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn; những tập đoàn, công ty cần cổ phần hóa. Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn đối với các tập đoàn, tổng công ty hoạt động có hiệu quả, được Nhà nước giao quản lý, khai thác và phân phối một bộ phận tài nguyên quốc gia, làm công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô.
Các tổng công ty Nhà nước là những DN có quy mô lớn, đa số hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên, vẫn còn một số tổng công ty kết quả sản xuất, kinh doanh còn thấp. Để cổ phần hóa một cách hiệu quả, cần phần thành hai loại: loại hoạt động có hiệu quả thì tiến hành cổ phần hóa ngay, loại hiệu quả chưa cao thì cần làm rõ nguyên nhân để có biện pháp nâng cao hiệu quả trước khi cổ phần hóa như: đầu tư, sắp xếp lại, lành mạnh hóa tình hình tài chính, đổi mới tổ chức cán bộ. Ngay trong năm nay 2010 cần phải tiến hành các đại
gia như Tập đoàn Dệt may VN, Tập đoàn Bưu chính viễn thông, Ngân hàng Đầu tư – Phát triển, Tổng công ty Xăng dầu VN, Tổng công ty thép VN…
2. Tiếp tục cổ phần hóa các công ty Nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh: tiến hành cổ phần hóa toàn bộ, kể cả doanh nghiệp hoạt động ở địa bàn khó khăn, hỗ trợ các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng đến mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa. Những doanh nghiệp khó khăn về tài chính cần phải cơ cấu lại trước khi chuyển đổi sở hữu.
Những doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng, kinh tế với an ninh thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ công an hoạt động trong lĩnh vực may mặc, xây lắp, thương mại… sẽ cổ phần hóa, trường hợp thật cần thiết Nhà nước mới giữ cổ phần chi phối. Có chính sách, chế độ lương hợp lý đối với số sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp làm việc trong các doanh nghiệp cổ phần hóa.
Những công ty không còn vốn Nhà nước thì bán, giải thể hoặc phá sản.
Đối với những doanh nghiệp quy mô nhỏ, có cùng ngành nghề hoặc có mối quan hệ về công nghệ, thị trường… với các doanh nghiệp khác thì xem xét sáp nhập, hợp nhất, không phụ thuộc doanh nghiệp do địa phương hay do Trung Ương quản lý để hình thành những doanh nghiệp quy mô lớn hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Sau khi tổ chức lại sẽ tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ. Việc sáp nhập, hợp nhất không được làm ảnh hưởng tới tình hình sản xuất, kinh doanh, tài chính của đơn vị nhận sáp nhập, hợp nhất, phải tiến hành xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, lao động trước khi thực hiện phương án sáp nhập, hợp nhất.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích: chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh thực hiện sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công
ích. Cổ phần hóa, Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần hoặc chỉ nắm giữ cổ phần ở mức thấp (< 35%) tại các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thực thưc đấu thầu, đặt hàng theo quy định tại Nghị định 31/2005/NĐ-CP.
II. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Chương trình cổ phần hóa ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Những bất cập này chỉ có thể được sửa chữa bằng những biện pháp toàn diện và có hệ thống chặt chẽ.
1. Về tư tưởng quan điểm cổ phần hóa – Nhận thức đúng đắn về cổ phần hóa và quyết tâm thực hiện cổ phần hóa
Điều kiện này cực kỳ quan trọng để đảm bảo tiến độ của chương trình cổ phần hóa như đã đề ra và giữ cho cổ phần hóa đi đúng hướng. Nhiều bằng chứng đã cho thấy rằng quyết tâm chính trị, thể hiện bằng những chính sách kịp thời và thực tế, giúp khắc phục nhiều trở ngại trên con đường cổ phần hóa, thậm chí ngay cả khi cổ phần hóa có nguy cơ rơi vào bế tắc (ví dụ như giai đoạn 1992 – 1998). Quyết tâm chính trị ở Việt Nam, cùng với các phân tích kinh tế, phải ủng hộ quan điểm cho rằng chính phủ chỉ nên can thiệp vào những lĩnh vực mà thị trường thất bại không nên can thiệp quá sâu vào khối doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hóa.
Mục tiêu của việc đẩy mạnh tuyên truyền cổ động cho CPH là làm cho các cấp, các ngành, từng doanh nghiệp và từng người lao động nhận thức về CPH như một xu thế tất yếu và sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho cả Nhà nước lẫn cá nhân. Từ đó tích cực, yên tâm thực hiện CPH, đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương quan trọng này của Đảng và Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp: người lãnh đạo (giám đốc), phó giám đốc hầu hết là do chế độ bổ nhiệm mà có, do vậy khi chuyển sang công ty cổ phần sẽ khó khăn trong việc giữ được chức vụ đó trước đại hội cổ đông. Sau
khi cổ phần hóa thì quyền lực quan trọng nhất thuộc về đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị công ty. Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước trước đây giả sử có tái cử làm giám đốc điều hành thì chỉ đóng vai trò thực thi của hai tổ chức nói trên. Hội đồng của giám đốc có sự giám sát chặt chẽ của ban kiểm soát và của Hội đồng quản trị công ty. Do đó thu nhập của giám đốc sẽ bị giảm xuống không còn hấp dẫn như trước, quyền hành bị hạn chế. Chắc chắn trước ngưỡng cửa cổ phần hóa, những người đứng đầu doanh nghiệp nói chung đều ít nhiệt tình đối với phương án cổ phần hóa. Chính vì lẽ đó các giám đốc doanh nghiệp Nhà nước thường có tâm lý không muốn cổ phần hóa, chuyển đổi sở hữu, mặc dù nhận thức được khó khăn trong cạnh tranh thị trường, và biết rằng doanh nghiệp có thể nguy cơ suy sụp trong cuộc cạnh tranh thị trường ngày một gay gắt.
Còn về phía người lao động, sau khi cổ phần hóa có thể bị mất việc, hoặc quyền lợi không được đảm bảo, đặc biệt là vấn đề mua, mua chịu và được cấp cổ phiếu. Chính vì lẽ đó, cần phải tạo sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương cổ phần hóa DNNN. Làm cho các cấp, các ngành, các DNNN quán triệt sâu sắc và có nhận thức đúng đắn về chủ trương, chính sách và các giải pháp đổi mới và phát triển DNNN. CPH DNNN không thể làm chệch hướng của nước ta lên cổ phần hóa.
Quá trình cổ phần hóa được tiến hành dưới sự lãnh đạo tập trung của Đảng và sự chỉ đạo chặt chẽ của Nhà nước XHCN. Bên cạnh đó, cổ phần hóa không làm ảnh hưởng đến quyền lợi và vị trí của mỗi người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào hoạt động của Doanh nghiệp. Đó là một trong những mục tiêu cổ phần hóa mà chúng ta thực hiện.
Để có thể đưa những nhận thức đúng đắn trên đây đến tất cả các cơ quan lãnh đạo ở từng cấp quản lý và đến từng doanh nghiệp cũng như đội ngũ cán bộ công nhân viên lao động làm việc tại doanh nghiệp. Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông
tin đại chúng về chủ trương, mục tiêu, quan điểm cũng như lợi ích về sự cần thiết của cổ phần hóa.
2. Về môi trường pháp lí cho cổ phần hóa
Xuyên suốt theo quá trình cổ phần hóa, đã có những văn bản luật hoặc dưới luật theo sát tiến trình cổ phần hóa và được hoàn thiện liên tục. Tuy nhiên cho tới thời điểm này thì vẫn còn những thiếu sót và hạn chế của các chính sách do Nhà nước đề ra.
Chúng ta cần phải sửa đổi nội dung các văn bản pháp quy về cổ phần hóa trước đây cũng như ban hành các văn bản mới sao cho thật phù hợp với tình hình hiện nay. Nhà nước và Chính phủ nên ban hành những tài liệu đầy đủ và hoàn chỉnh về công tác Cổ phần hóa: từ các văn bản mang tính chủ trương chính sách, các văn bản pháp lý cho tới những hướng dẫn cho các DN thực hiện các bước cổ phần hóa một cách chi tiết nhất, cụ thể nhất. Thực chất, trong số DN muốn cổ phần hóa có tình trạng các cấp lãnh đạo không nắm rõ mình phải làm theo trình tự nào, có những văn bản nào hướng dẫn việc cổ phần hóa, đó chính là một hạn chế dẫn tới tình trạng làm chậm tiến độ cổ phần hóa.
Như vậy, một mặt cần thêm các văn bản để tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ về CPH, mặt khác cũng nên tránh việc ban hành quá nhiều văn bản hướng dẫn cổ phần hóa như trước đây, bởi điều này sẽ gây ra nhiều bất lợi cho các DN. Chẳng hạn như hầu hết các nghị định của Chính phủ về Cổ phần hóa khi ban hành đều có sửa đổi so với tình hình thực tế nhưng sau một thời gian ngắn lại không phù hợp nên phải bổ sung hoặc sửa đổi. Đối với các DN CPH, đây là một khó khăn, gây ảnh hưởng đến quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp. Vì vậy các nhà hoạch định chính sách nên nghiên cứu kỹ để ban hành các văn bản pháp lý lành mạnh và ổn định để các cấp các ngành thuận lợi trong công tác Cổ phần hóa. Hiện nay các DN khi tiến hành cổ phần hóa vẫn phải tuân theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP, tuy nhiên nghị