chế độ vay vốn để tự tạo việc làm từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Đồng thời, cần điều chỉnh cơ cấu ngành nghề cho phù hợp với nhu cầu hiện tại và tương lai.
Một việc cần thực hiện ngay trong tiến trình CPH DNNN là phân loại lao động dôi dư trong doanh nghiệp. Việc xây dựng tiêu chuẩn phân loại lao động dôi dư là quan trọng nhất, nhất thiết phải đảm bảo tính khoa học, dân chủ và công khai. Do vậy, để tạo điều kiện bố trí, sắp xếp lại lao động ở các doanh nghiệp một cách hợp lý và người lao động có thêm cơ hội việc làm, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình CPH DNNN, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau [2]:
Một là, từng bước phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, tập trung vào các chính sách và giải pháp nhằm tạo thuận lợi cho việc luân chuyển lao động, tạo điều kiện giải quyết số lao động dôi dư của doanh nghiệp được CPH từ DNNN. Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm khi tham gia thị trường lao động như: hỗ trợ về tài chính khi bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, đào tạo lại tay nghề cho người lao động.
Hai là, đối với bản thân doanh nghiệp, bên cạnh việc trông chờ vào sự chỉ đạo của Nhà nước, cũng cần có chính sách đãi ngộ thích hợp đối với bộ phận lao động dôi dư này. Ban lãnh đạo doanh nghiệp nên trích một phần thặng dư vốn sau phát hành Cổ phần lập các quỹ dự phòng, quỹ hỗ trợ,... làm ngân sách để đào tạo lại, nâng cao tay nghề của người lao động, giảm bớt lượng lao động dôi dư, hoặc trợ cấp cho họ tìm công việc mới phù hợp với trình độ và năng lực của mình. Việc hỗ trợ tài chính từ các quỹ hỗ trợ để giải quyết lao động dôi dư cần được áp dụng làm nhiều lần đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, có các nhà máy đóng tại các địa bàn khác nhau, thực hiện thành nhiều Công ty Cổ phần và ở những thời điểm khác nhau.
Ba là, các bộ, ngành, tỉnh, thành phố và doanh nghiệp tiếp tục thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước vể
chủ trương cải cách DNNN để nâng cao nhận thức, quán triệt nội dung và thống nhất hành động khi triển khai; phát triển hệ thống thông tin về thị trường lao động, việc làm, về các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực từ đó cung cấp thông tin cần thiết cho người lao động và sử dụng lao động. Hệ thống thông tin này cần thông suốt trong cả nước, được nối mạng, vi tính hoá. Phát triển hệ thống các cơ sở dịch vụ việc làm, cung cấp thông tin, tư vấn, giới thiệu việc làm.
Bốn là, cần có chính sách kích cầu lao động như: hỗ trợ vốn ban đầu cho những người kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các chương trình tạo công ăn việc làm cho người lao động, xuất khẩu lao động, qua đó giảm sức ép về dư thừa lao động, chuyển dịch lao động dư thừa ở doanh nghiệp sau CPH sang khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt chính sách giảm cung về lao động, bao gồm các chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách di dân sang khu vực ít bị sức ép dư thừa lao động. Hình thành và phát triển thị trường nhân lực quản lý và lãnh đạo các doanh nghiệp sau CPH, từng bước hình thành thể chế thị trường nhân lực quản lý với đội ngũ các nhân tài được thị trường đánh giá, tuyển chọn và giới thiệu, tạo điều kiện để rút ngắn khoảng cách giữa cung và cầu về nhân lực quản lý và lãnh đạo.
Năm là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, bảo vệ cả người lao động và người sử dụng lao động; xem xét lại các quy định có thể làm mất tính linh hoạt của thị trường lao động và hạn chế sự di chuyển hoặc cơ cấu lại lao động. Chính sách đối với người lao động phải phù hợp với thực tế, quyền lợi cần được bảo đảm, nhất là đối tượng lao động không bố trí được việc làm được hưởng các quyền lợi như: được mua Cổ phần ưu đãi, hưởng quỹ phúc lợi khen thưởng còn dư tại thời điểm CPH công bằng như những người lao động tiếp tục được làm việc tại Công ty Cổ phần, chế độ bảo hiểm xã hội được hưởng theo thời gian đã đóng. Thời gian tới, Nhà nước cần có biện pháp
hỗ trợ, cho phép doanh nghiệp sử dụng vốn vay lãi suất thấp để tạo thêm việc làm, cho người lao động vay vốn tự tạo việc làm,....
Sáu là, tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể ở các cấp, các ngành tổ chức các cuộc đối thoại với doanh nghiệp nhằm phổ biến các kinh nghiệm tốt, các mô hình hay của các doanh nghiệp đã thực hiện CPH. Thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách đối với người lao động để kịp thời ngăn chặn tình trạng thực hiện không đúng theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp cần chủ động tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc theo đặc thù riêng của mỗi doanh nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Trong Quá Trình Cổ Phần Hoá Các Doanh Nghiệp Nhà Nước Ở Việt Nam Hiện Nay
- Một Số Vấn Đề Tồn Tại Và Nguyên Nhân
- Một Số Giải Pháp Nhằm Đẩy Nhanh Tiến Trình Cổ Phần Hoá Các Doanh Nghiệp Nhà Nước Ở Việt Nam
- Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 12
- Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 13
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
3. Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp
Công tác xác định giá trị doanh nghiệp CPH được coi là một trong những khó khăn phức tạp của quá trình CPH. Việc thực hiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo cơ chế thông qua Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp như trước đây là một hạn chế, mang tính chủ quan, khép kín, dễ đưa đến kết quả không xác định đầy đủ giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, nếu do có đánh giá giá trị doanh nghiệp CPH chưa thật sát thì vẫn thuộc Cổ phần của Nhà nước nắm giữ hoặc Cổ phần của người lao động trong doanh nghiệp được hưởng và không nên coi là thất thoát.
Tồn tại này đã được khắc phục từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP, theo đó, phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đã được cải tiến một bước quan trọng, việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH được thực hiện thông qua các tổ chức có chức năng và chuyên môn về định giá, như: Công ty chứng khoán, Công ty kiểm toán, tổ chức thẩm định giá,... thực hiện để làm cơ sở cho việc đấu giá ra công chúng. Nghị định 187 quy định: doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản trên sổ kế toán trên 30 tỷ đồng phải thuê tư vấn định giá [14].
Vào ngày 26/6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2007/NĐ- CP tiếp tục bổ sung nội dung quy định về bắt buộc thuê các tổ chức có chức
năng định giá thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp đối với những doanh nghiệp có vị trí địa lý thuận lợi. Nghị định 109 quy định cụ thể hơn về các trường hợp bắt buộc phải thuê tư vấn định giá, bao gồm: doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản trên sổ kế toán trên 30 tỷ đồng; hoặc giá trị vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng theo sổ kế toán; hoặc có vị trí địa lý thuận lợi. Có thể thấy, Nghị định 109 đã có sự thắt chặt và thu hẹp về diện được tự xác định giá, triệt để khắc phục tình trạng "chia vốn Nhà nước" như một vài vụ CPH diễn ra trong những năm vừa qua [14].
Bên cạnh đó, Nghị định 109 cũng bổ sung nhiều quy định về định giá như: Phải đấu thầu để lựa chọn nhà tư vấn định giá nếu có từ 2 nhà tư vấn trở lên tham gia; Tổ chức tư vấn được lựa chọn phương pháp định giá; Giá trị doanh nghiệp được xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng khi công bố phải được so sánh và đảm bảo không thấp hơn giá trị được xác định theo phương pháp tài sản; Giá trị doanh nghiệp được điều chỉnh nếu sau 12 tháng kể từ thời điểm xác định mà chưa thực hiện việc bán Cổ phần,.... Đây cũng là những điều chỉnh kịp thời nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tế triển khai CPH. Việc quy định giá trị doanh nghiệp xác định theo các phương pháp khác không được nhỏ hơn giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp tài sản cũng là một quy định cần thiết nhằm tránh tình trạng định giá thấp vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Trong hai phương pháp định giá mà Nghị định 109 đưa ra (phương pháp tài sản và phương pháp chiết khấu dòng tiền), phương pháp tài sản có một điểm thay đổi căn bản. Đó là, giá trị đất thuê trả tiền thuê một lần (ghi nhận tài sản cố định theo chuẩn mực kế toán) được tính vào giá trị doanh nghiệp theo giá sát với giá thị trường tại thời điểm định giá do UBND tỉnh quy định và công bố. Nghị định cũng quy định cụ thể cách thức, thời gian xác định giá trị quyền sử dụng đất,.... Có một thực tế là hầu hết các DNNN hiện đang sở hữu một khối lượng tương đối lớn đất (chính xác hơn là quyền sử dụng đất)
dưới dạng được giao hoặc được Nhà nước cho thuê. Giá trị quyền sử dụng đất ghi nhận trên sổ sách thường thấp hơn nhiều so với giá thực tế trên thị trường, nhất là tại các vị trí "ngon lành". Theo quy định trước đây (Nghị định 187), nếu là đất thuê thì không tính vào giá trị doanh nghiệp khi CPH. Quy định này đã tạo ra một kẽ hở lớn khiến cho không ít vụ CPH DNNN trở thành những cuộc tư hữu hoá tài sản Nhà nước với giá rẻ, gây thất thoát lớn khiến công luận phải nhiều lần lên tiếng. Hy vọng quy định mới của Nghị định 109 sẽ phần nào khắc phục tình trạng trên [19].
Tóm lại, quá trình CPH DNNN là một quá trình thay đổi, phát triển cả về nhận thức, tư duy và hoàn thiện, bổ sung cơ chế chính sách; nếu cứ suy diễn dựa vào những hạn chế, bất cập trong giai đoạn thí điểm ban đầu để kéo dài quá trình chuyển đổi, CPH DNNN là chưa phù hợp. Việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH cần được thống nhất dựa trên nguyên tắc thị trường và được Nhà nước đảm bảo thực hiện công khai, minh bạch; quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp CPH đã được Nhà nước đảm bảo trong mức có thể, đòi hỏi bản thân người lao động phải không ngừng rèn luyện đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới và phát huy tối đa những ưu đãi nhận được từ Nhà nước trong quá trình CPH.
4. Giải quyết các khoản nợ của doanh nghiệp Cổ phần hoá
Tình trạng các doanh nghiệp đang là con nợ chưa có hướng giải quyết trong quá trình thực hiện CPH và cả các doanh nghiệp sau khi CPH vẫn còn ôm những món nọ do việc chuyển đổi không xác định rõ trách nhiệm người phải trả đang là nỗi lo cho các cơ quan quản lý, các chủ nợ (chủ yếu là các ngân hàng) và chính các doanh nghiệp. Và hướng giải quyết ở đây là xử lý tận gốc qua mua bán nợ.
Việc xử lý nợ của doanh nghiệp cần phải xử lý tận gốc từ trước khi CPH. Tuy nhiên xử lý triệt để như thế nào thì lại là một bài toán khó đặt ra. Theo các chuyên gia, giải pháp xử lý nợ, đặc biệt là những món nợ xấu của các
doanh nghiệp trước khi chuyển đổi thông qua hệ thống các Công ty mua bán nợ, là giải pháp rất cần được quan tâm.
Hiện tại, chủ yếu các ngân hàng thương mại là chủ nợ lớn nhất những món nợ xấu, khó đòi của các DNNN. Chính vì vậy, nếu xử lý được khoản nợ này sẽ vừa giải quyết được khó khăn cho hệ thống ngân hàng vừa xử lý được nợ xấu, làm lành mạnh tài chính, đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN.
Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp-DATC là một DNNN với hoạt động được quy định trong Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 05/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ, cụ thể là các hoạt động về tiếp nhận và xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng không tính vào giá trị DNNN khi thực hiện sắp xếp, đổi mới và CPH DNNN; mua bán và xử lý các khoản nợ của doanh nghiệp theo phương thức chỉ định của Thủ tướng Chính phủ và phương thức thoả thuận theo "cơ chế thị trường", "thuận mua vừa bán" nhằm mục tiêu lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và phát triển [1].
Rõ ràng, việc xử lý nợ cần có một lộ trình trong một thời gian nhất định qua tổ chức mua bán nợ của Chính phủ. Trong bối cảnh nợ tồn đọng của các DNNN, các ngân hàng thương mại Nhà nước còn cao, tài chính DNNN chưa lành mạnh do nợ xấu, rất cần có cơ chế xử lý nợ một cách hoàn thiện, tổng thể từ Chính phủ. Việc xử lý tổng thể nợ của các DNNN, đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, sẽ cơ bản giải quyết được tận gốc những tồn tại về tài chính của các DNNN, từ đó góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình CPH, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp.
5. Vấn đề chính sách đối với Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
- Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý trong doanh nghiệp và quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn và giữ Cổ phần chi phối.
- Cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ, chặt chẽ, có hiệu quả công tác sắp xếp, CPH DNNN theo nguyên tắc thị trường, gắn CPH với phát triển thị trường chứng khoán.
- Cần xúc tiến nhanh việc điều chỉnh cơ chế định giá doanh nghiệp qua định chế trung gian để tránh tình trạng làm thất thoát một lượng lớn tài sản Nhà nước như thời gian qua. Bên cạnh đó, cần văn bản hoá việc đa dạng hoá sở hữu, việc thay đổi cơ cấu tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ, việc thay đổi quan hệ quản lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp (Nhà nước một mặt với vai trò là một chủ sở hữu có quyền lợi và trách nhiệm đối với doanh nghiệp theo số Cổ phần đóng góp, mặt khác với vai trò quản lý xã hội có trách nhiệm tạo lập hệ thống văn bản pháp lý, nền văn hoá, đạo lý xã hội phù hợp với cơ sở kiến trúc thượng tầng đa thành phần kinh tế, vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa).
- Cần thực hiện chủ trương đẩy nhanh tiến độ CPH Công ty Nhà nước theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 9 lần thứ IX, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 84/2004/QĐ-TTg ngày 13/5/2004 về thí điểm CPH một số Tổng công ty Nhà nước mà không phân biệt quy mô vốn lớn hay nhỏ như giai đoạn trước, như: Tổng công ty Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam, Tổng công ty Điện tử-Tin học Việt Nam, Tổng công ty Thương mại và Xây dựng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có những đơn vị có số vốn lên tới hàng trăm tỷ đồng. Do đó, cần xây dựng cơ chế thí điểm chuyển các đơn vị sự nghiệp có đủ điều kiện thành doanh nghiệp (theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Tổng công ty Cổ phần) [22].
6. Về chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp Cổ phần hoá
Thứ nhất, Chính phủ cần hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với người lao động, nhất là lao động nghèo trong quá trình CPH, tạo điều kiện để người lao
động có thể mua hết và nắm giữ số Cổ phiếu ưu đãi, trở thành những người chủ thực sự của doanh nghiệp-nền tảng đảm bảo quyền dân chủ của người lao động. Trước đây, trong quá trình CPH, người lao động nghèo được mua chịu số Cổ phần ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần trong 7 năm tiếp theo. Nhiều lao động nghèo đã mua được Cổ phần và được hưởng mọi quyền lợi chính trị và kinh tế của một cổ đông, không ít người nhờ đó đã thoát nghèo. Đến khi Chính phủ ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 "về việc chuyển DNNN thành Công ty Cổ phần" và tiếp theo là Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 thay thế Nghị định số 187/2004/NĐ-CP, quy định cho lao động nghèo mua chịu Cổ phần đã bị bãi bỏ. Nhiều lao động nghèo buộc phải bán "quyền" mua Cổ phiếu ưu đãi, từ bỏ quyền làm chủ đối với doanh nghiệp mà có những người đã có hàng chục năm cống hiến, xây dựng. Vì vậy, Chính phủ và các ban, ngành chức năng cần nghiên cứu, khôi phục lại chính sách ưu đãi này [11].
Thứ hai, cần đẩy mạnh chiến lược đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực.
Để hội nhập và phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm coi trọng đào tạo và quản lý nguồn nhân lực. Bởi con người là nguồn lực cơ bản nhất và là mục tiêu lâu dài của sự phát triển. Đảng và Nhà nước ta luôn coi chính sách giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực càng phải được chú trọng. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, đặc biệt là Nhật Bản đã minh chứng cho chúng ta thấy, việc đầu tư khai thác và sử dụng tốt nguồn nhân lực đã mang lại sự phát triển thần kỳ đối với họ. Do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực là điểm mấu chốt cần giải quyết để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực không chỉ tác