Khái Niệm Hiệu Quả Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Nhtm.


không cần giữ cổ phần chi phối. Cũng có quan niệm khác cho rằng cổ phần hóa chính là quá trình tư nhân hóa, tư nhân hóa theo nghĩa rộng tức là sự biến đổi tương quan giữa nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị trường; còn tư nhân hóa theo nghĩa hẹp tức là quá trình giảm bớt quyền lực nhà nước hoặc giảm bớt sự kiểm soát của chính phủ trong một doanh nghiệp.(đề cương bài giảng môn tài chính doanh nghiệp, chuyên đề 3: tái cấu trúc TCDN của GS Dương Thị Bình Minh, trường ĐHKT TP.HCM).

1.1.2.2. Quan điểm của một số nhà kinh tế học Việt nam hiện nay.

- Quan điểm thứ nhất cho rằng cổ phần hóa chính là quá trình tư nhân hóa, chuyển hình thức sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân quản lý và điều hành phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước giai đoạn hiện nay là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khuyến khích việc mở rộng, phát triển đa thành phần kinh tế trong đó chú trọng phát triển thành phần kinh tế tư nhân.

- Quan điểm thứ hai cho rằng cổ phần hóa chỉ là hình thức xác định lại về mặt chủ sở hữu của NHTM do trước đây nêu ra một cách quá chung chung là do nhà nước quản lý, cán bộ nhân viên làm chủ nên đã hình thành tư tưởng sở hữu chung, mọi người cùng làm chủ nhưng thực chất không ai làm chủ dẫn đến buông lỏng quản lý gây thất thoát tài sản công.

- Quan điểm thứ ba thì cho rằng cổ phần hóa thực chất là quá trình xã hội hóa NHTM, cả nhà nước và tư nhân cùng liên kết, góp vốn vào ngân hàng để hợp tác kinh doanh kiểu lời ăn lỗ chịu nhằm giảm gánh nặng về chi phí điều hành quản lý và nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Như vậy cổ phần hóa NHTM là việc chuyển đổi những ngân hàng mà nhà nước xét thấy không cần thiết nắm giữ 100% vốn thành NHTM cổ phần với đa hình thức sở hữu, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, người lao động được nắm giữ cổ phần trở thành những người chủ thực sự của ngân hàng đó nhằm huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước.


1.1.3. Khái niệm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của NHTM.

Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán chi tiết, cụ thể, chính xác các kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính, thị trường đầu vào, đầu ra của sản phẩm, dự báo được các biến động bất lợi có thể xảy ra để có phương án xử lý thích hợp giúp doanh nghiệp đạt mục tiêu tăng trưởng ổn định, tăng lợi nhuận và quy mô hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh; như vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh có nghĩa là:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Theo P.Samuellson và W.Nordhaus thì hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loạt hàng hóa mà không cắt giảm một loạt hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả phải nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất PPF (production possibilities frontier) đó là tập hợp mức sản lượng tối đa của các hàng hóa mà nền kinh tế có thể sản xuất với tất cả nguồn lực sẵn có. (Samuellson& Nordhaus, 1989); hiệu quả sản xuất kinh doanh theo quan điểm của hai ông đề cập ở đây có tính chất bao trùm toàn bộ nền kinh tế, đó là việc phân bổ có hiệu quả các nguồn lực sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả cao nhất.

Theo quan niệm của các nhà quản trị, hiệu quả (effectiveness) là mức độ đạt được mục tiêu đề ra như mục tiêu kinh doanh thể hiện bằng hiệu quả kinh tế, mục tiêu tăng trưởng thể hiện qua mức độ tăng trưởng hoặc có thể là những mục tiêu khác như: chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường,..vv.

Nâng cao hiệu quả hoạt động Ngân hàng TMCP Công Thương chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh sau cổ phần hóa - 3

Theo quan niệm của các nhà kinh tế học, hiệu quả hoạt động kinh doanh chính là hiệu quả của hoạt động đầu tư, việc đầu tư được coi là hiệu quả khi lợi nhuận đạt được tối đa có thể trên cơ sở tối đa hóa doanh thu và tối thiểu hóa chi phí.

Như vậy hiểu một cách chung nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, biểu hiện sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, nó phản ánh trình độ khai thác và sử dụng các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất mở rộng như:


nguồn lao động, đối tượng lao động, phương tiện lao động, công cụ lao động, tiền vốn và các yếu tố khác..vv., nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh, với chi phí bỏ ra ít nhất mà đạt hiệu quả cao nhất.

Hiệu quả họat động NHTM là kết quả mà ngân hàng đó đạt được so với kế hoạch đề ra về các tiêu chí đánh hoạt động trong kỳ. Tùy giai đoạn phát triển, tùy chiến lược kinh doanh của mỗi NHTM việc đánh giá hiệu quả hoạt động dựa trên các tiêu chí khác nhau. Hiện nay tại VietinBank, việc đánh giá hiệu quả hoạt động dựa trên các nhóm tiêu chí như: Năng lực tài chính, Công nghệ - Sản phẩm dịch vụ, Quản trị điều hành - Chất lượng nguồn nhân lực, Mạng lưới - Thị phần, Thương hiệu - Văn hóa doanh nghiệp và Hiệu quả về mặt xã hội.

1.2. Chức năng, nghiệp vụ của NHTM

1.2.1. Chức năng cơ bản của NHTM.

1.2.1.1. Chức năng trung gian tín dụng

Thực hiện chức năng này, NHTM trở thành một định chế tài chính trung gian làm cầu nối giữa những chủ thể dư thừa vốn, họ không dám hoặc không đủ điều kiện đầu tư trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như không muốn tài trợ trực tiếp vào thị trường tài chính thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu của doanh nghiệp, họ chấp nhận tài trợ gián tiếp thông qua các trung gian tài chính là hệ thống NHTM và hưởng mức lãi suất thấp hơn nhưng mức độ rủi ro ít hơn so với đầu tư trực tiếp; bên cạnh đó các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp hoặc thậm chí là chính phủ khi thiếu vốn tạm thời phục vụ cho các nhu cầu cần thiết sẽ tìm đến ngân hàng kêu gọi sự tài trợ và chấp nhận một mức lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm để thực hiện cho mục đích của mình. Trong các chức năng của NHTM thì chức năng trung gian tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất vì nó huy động và tập trung hầu hết các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của xã hội, chuyển hóa nó từ chỗ là phương tiện tích lũy trở thành nguồn vốn lớn của nền kinh tế giúp hình thành một kênh dẫn vốn từ người không có cơ hội kinh doanh sang người có cơ hội sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện phân bổ lại nguồn vốn một cách có hiệu quả, góp phần nâng cao sức sản xuất và hiệu quả của nền kinh tế.


-Cá nhân

-Hộ gia đình

-Doanh nghiệp

-Tổ chức kinh tế

-Tổ chức xã hội

-Cá nhân

-Hộ gia đình

-Doanh nghiệp

-Tổ chức kinh tế

-Tổ chức xã hội

Huy động vốn Đầu tư vốn


NHTM


Hình 1.1 Mô hình chức năng trung gian tín dụng của NHTM


1.2.1.2. Chức năng trung gian thanh toán

Thực hiện chức năng trung gian thanh toán khi NHTM theo yêu cầu của khách hàng, thực hiện các giao dịch ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, trích tài khoản tiền gửi của khách hàng thanh toán cho các đối tác cung cấp dịch vụ, hàng hóa hoặc thu hộ tiền từ nguồn bán hàng hóa dịch vụ hoặc từ các khoản phải thu khác.

- Cá nhân

-Hộ gia đình

-Doanh nghiệp

-Tổ chức kinh tế

-Tổ chức xã hội

-Cá nhân

-Người bán hàng

-Người thụ hưởng

-Tổ chức kinh tế

-Tổ chức xã hội

Thực hiện chức năng này, NHTM trở thành thủ quỹ cho khách hàng đồng thời là trung tâm giao dịch thanh toán của xã hội giúp đẩy mạnh việc sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt làm giảm bớt khối lượng tiền trong lưu thông, đảm bảo an toàn trong quá trình thanh toán, tăng khối lượng thanh toán bằng chuyển khoản, giảm bớt chi phí cho xã hội về in ấn, vận chuyển, bảo quản tiền, tiết kiệm nhiều chi phí giao dịch thanh toán, kiểm soát được các hiệu ứng tiêu cực như trốn thuế, tham nhũng, rửa tiền..vv. Bên cạnh đó khi thực hiện chức năng trung gian thanh toán kết hợp với chức năng trung gian tín dụng, các NHTM đã vô hình chung thực hiện một chức năng mới đó là tạo tiền ghi sổ trên tài khoản thanh toán của khách hàng. Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Do đa phần các giao dịch thanh toán qua ngân hàng là những giao dịch có giá trị lớn, phạm vi thanh toán không chỉ bó hẹp ở địa phương mà còn mở rộng trong phạm vi cả nước và ra thế giới, điều này góp phần thúc đẩy một cách mạnh mẽ cả kinh tế trong nước lẫn các quan hệ kinh tế thương mại và tài chính tín dụng quốc tế phát triển.

Lệnh chi Giấy báo có


NHTM


Hình 1.2 Mô hình chức năng trung gian thanh toán của NHTM


1.2.1.3. Chức năng cung cấp các dịch vụ tài chính


Do có những lợi thế đặc biệt như: có hệ thống mạng lưới cơ sở vật chất được trang bị hiện đại và rộng khắp thuận lợi trong việc tiếp xúc giao dịch và tư vấn cho khách hàng, có đội ngũ nhân viên được tào tạo bài bản, chuyên nghiệp, giỏi nghiệp vụ chuyên môn, đảm bảo chất lượng của dịch vụ cung cấp cho khách hàng một cách tốt nhất, có điều kiện tiếp cận, phân tích, lưu trữ thông tin tài chính tiền tệ nhanh chóng kịp thời và chính xác do trước đó đã thiết lập được mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp và tổ chức kinh tế và hình thành được trung tâm lưu trữ thông tin khách hàng, nắm rõ về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như năng lực tài chính của khách hàng, do đó NHTM là tổ chức tốt nhất trong việc cung cấp dịch vụ tài chính cho các chủ thể của nền kinh tế, góp phần giảm thiểu rủi ro tài chính trên thị trường hướng tới mục tiêu tối thiểu hóa chi phí, tối đa hóa thu nhập và lợi nhuận.

1.2.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM


1.2.2.1. Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn


Tạo lập nguồn vốn là một trong những nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhằm tạo cơ sở vật chất cho các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Ngoài nguồn vốn tự có gồm vốn điều lệ và vốn tự bổ sung, các NHTM còn huy động vốn từ các chủ thể của nền kinh tế để tạo lập lên nguồn vốn kinh doanh và đó là nguồn vốn cơ bản chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng nguồn vốn kinh doanh của NHTM. Để huy động nguồn vốn, các NHTM thường thực hiện các nghiệp vụ sau:

- Nhận tiền gửi: căn cứ vào thời gian và mục đích gửi tiền của khách hàng, ta chia nguồn vốn này thành các bộ phận như:

+ Tiền gửi không kỳ hạn: hình thức gửi tiền này, người gửi có thể gửi vào hoặc rút ra bất cứ lúc nào, vì vậy lãi suất tiền gửi theo hình thức này thường thấp hơn so với tiền gửi có kỳ hạn.

+ Tiền gửi có kỳ hạn: thực hiện thông qua việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá và thời hạn cố định, việc huy động tiền gửi theo hình thức này áp


dụng trong trường hợp ngân hàng cần vốn để đầu tư cho những dự án có mức sinh lời cao nên lãi suất sẽ cao hơn lãi suất tiết kiệm thông thường.

+ Tiền gửi tiết kiệm: nhằm mục đích huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư thông qua hình thức tiết kiệm nhằm hưởng lãi suất như: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có mục đích.

- Vốn đi vay: là nguồn vốn giữ vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của NHTM nhằm tạo ra cơ cấu nguồn vốn hợp lý và ổn định về quy mô, kỳ hạn và mức độ rủi ro. Việc đi vay có thể thông qua các hình thức sau:

+ Vay trong nước


Vay NHNN: ngân hàng trung ương sẽ tiếp vốn cho NHTM thông qua biện pháp như vay chiết khấu, tái chiết khấu, vay cầm cố chứng từ có giá, vay lại theo hồ sơ tín dụng, vay khác.

Vay các TCTD khác thông qua thị trường liên ngân hàng nhằm khai thác khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của các TCTD khác để điều hòa nhu cầu vốn khả dụng, đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt giữa các ngân hàng và nền kinh tế.

Phát hành chứng chỉ tiền gửi dưới hình thức kỳ phiếu ngân hàng để huy động nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư cho các dự án đã và đang triển khai, theo các hình thức trả lãi trước và trả lãi sau.

+ Vốn vay nước ngoài: thông qua các quan hệ quốc tế để tranh thủ nguồn vốn tín dụng, vốn ưu đãi lãi suất thấp của các tổ chức quốc tế.

- Vốn khác: vốn tiếp nhận từ chính phủ, vốn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính tiền tệ, vốn tiếp nhận từ các tổ chức khác.

1.2.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn


Trong nghiệp vụ sử dụng vốn thì tín dụng và đầu tư là hai nghiệp vụ quan trọng nhất quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của NHTM và là nghiệp vụ


cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản Có của ngân hàng, phục vụ cho quá trình kinh doanh, tạo ra thu nhập và lợi nhuận.

- Nghiệp vụ tín dụng: nguồn vốn của ngân hàng sau khi để dành một phần dự trữ theo tỷ lệ quy định, các NHTM sẽ dùng để cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của xã hội thông qua các nghiệp vụ sau đây:

+ Cho vay: là một loại nghiệp vụ tín dụng chứng từ, theo đó NHTM sẽ cung ứng vốn bằng tiền vào nền kinh tế thông qua việc cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, đầu tư hoặc tiêu dùng. Do nghiệp vụ tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro, vì vậy ngân hàng có quyền áp dụng các biện pháp đảm bảo cho khoản vay như: thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba,..vv.

+ Chiết khấu: là nghiệp vụ cho vay gián tiếp, ngân hàng cung ứng vốn thông qua việc mua lại các loại giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán với giá trị thấp hơn giá trị mệnh giá, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn tài chính tạm thời cho doanh nghiệp, giúp họ có vốn để tiếp tục quay vòng phục vụ sản xuất kinh doanh. Các đối tượng trong nghiệp vụ này gồm hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ có giá khác.

+ Cho thuê tài chính: là hình thức tín dụng trung, dài hạn, theo đó các công ty cho thuê tài chính dùng vốn của công ty để mua sắm tài sản, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải theo yêu cầu của người đi thuê và cho thuê trong một thời gian nhất định để phục vụ sản xuất kinh doanh. Khi kết thúc hợp đồng thuê, người thuê được quyền mua, được cho tặng tài sản hoặc trả lại thiết bị cho bên cho thuê.

+ Bảo lãnh ngân hàng: thông qua uy tín, NHTM bảo lãnh cho khách hàng thực hiện các giao dịch cần có sự đảm bảo về tài chính như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh chất lượng sản phẩm, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước,..vv. Trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ khi đến hạn, ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện thay nghĩa vụ


đó đối với bên nhận bảo lãnh đồng thời chuyển khoản bảo lãnh thành nợ quá hạn và truy đòi lại giá trị bảo lãnh cùng lãi suất phạt quá hạn đối với bên được bảo lãnh.

- Nghiệp vụ đầu tư: một bộ phận nguồn vốn của ngân hàng mang tính ổn định cao được dùng đầu tư vào lĩnh vực liên doanh liên kết, đầu tư, có thời gian thu hồi vốn dài, tính rủi ro cao và lợi nhuận dự tính thu được cao hơn lợi tức thông thường của các nghiệp vụ kinh doanh khác. Đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai của NHTM sau khoản mục cho vay. Các NHTM thường đầu tư theo hình thức sau đây:

+ Đầu tư trực tiếp: là việc ngân hàng trực tiếp bỏ vốn đầu tư, quản lý điều hành và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Nguồn vốn đầu tư này nhất thiết phải là vốn của ngân hàng.

+ Đầu tư tài chính: là hình thức đầu tư linh hoạt, đơn giản hơn so với đầu tư trực tiếp, bên đầu tư dễ dàng chuyển đổi danh mục đầu tư theo hướng có lợi nhất phù hợp từng thời điểm và biến động của thị trường, hình thức đầu tư này thường được các NHTM sử dụng khá phổ biến để đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân chia rủi ro, sử dụng hiệu quả nguồn vốn dư thừa nhằm thu lợi nhuận tối đa.

1.2.2.3. Nghiệp vụ trung gian thanh toán và ngân quỹ


Do có lợi thế về mạng lưới giao dịch cũng như quan hệ khách hàng, các NHTM đã phát triển dịch vụ trung gian thanh toán và ngân quỹ vừa để hỗ trợ hoạt động kinh doanh tín dụng và đầu tư, vừa tìm kiếm lợi nhuận. Việc thực hiện nghiệp vụ này không những làm cho các NHTM trở thành ngân hàng đa năng mà còn tạo ra một phần thu nhập khá lớn, ngoài ra dịch vụ trung gian thanh toán và ngân quỹ cũng sẽ góp phần làm giảm lượng tiền mặt lưu hành trong nền kinh tế.

1.3. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM

1.3.1. Năng lực tài chính

Năng lực tài chính của NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn trong quá trình kinh doanh thể hiện chủ yếu ở quy mô vốn tự có, chất lượng tài sản, khả năng sinh lời và khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 08/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí