Yếu Tố Trình Độ Tiến Bộ Khoa Học – Kỹ Thuật – Công Nghệ

trí địa lý, khí hậu, thời tiết thuận lợi cũng là những tài nguyên quý giá cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội.

Cùng với vị trí địa lý, nguồn tài nguyên đất đai, khoáng sản, sông ngòi, bờ biển, rừng núi… cũng ảnh hưởng rất lớn đến giải quyết việc làm. Vai trò của đất đai đối với lao động, việc làm là cực kỳ quan trọng. Đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp, đất canh tác là tư liệu lao động đồng thời là đối tượng lao động của người nông dân.

Những tiềm năng của mỗi quốc gia cho phép quốc gia đó tổ chức phân công lao động, tạo ra hàng trăm hàng nghìn loại hình công việc khai thác lợi thế sông, biển, rừng ven biển và các tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh điều kiện tự nhiên đến đâu, tạo được kết quả phát triển kinh tế - xã hội ở mức nào, có tác động quan trọng tới thực hiện chính sách công. Đây là sự tác động hai chiều, hỗ trợ cho nhau khi triển khai chính sách việc làm.

1.3.3. Yếu tố trình độ tiến bộ khoa học – kỹ thuật – công nghệ

Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang làm thay đổi tính chất và nội dung nghề nghiệp của người lao động. Cách mạng công nghệ đã dẫn đến việc sử dụng công cụ, phương tiện hiện đại, phức tạp nên lao động trí óc dần dần đã thay thế lao động chân tay. Nếu trình độ học vấn, mặt bằng dân trí được nâng cao thì năng lực làm việc của con người sẽ được mở rộng. Người lao động có trí tuệ không chỉ nắm vững sâu sắc chuyên môn một nghề mà họ còn có thể tham gia ở những nghề khác, nghĩa là học có thể có khả năng làm nhiều loại công việc.

Ở nước ra hiện nay, trình độ công nghệ sử dụng trong các ngành kinh tế lạc hậu so với trình độ trung bình tiên tiến trên thế giới từ 2 đến 3 thế hệ kỹ thuật (không kể một số lĩnh vực mới như: dầu khí, viễn thông). Một số ngành công nghiệp then chốt như cơ khí, chế tạo động cơ… có trình độ công nghệ lạc hâu 30 – 50 năm so với các nước phát triển trung bình. Vì vậy, công nghiệp hóa

– hiện đại hóa gắn với kinh tế mở và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm rút ngắn

khoảng cách lạc hậu về trình độ công nghệ so với các nước là con đường tất yếu để phát triển nhanh nền kinh tế nước ta.

Hiện nay, việc đổi mới công nghệ lại mâu thuẫn với tiềm năng nguồn lực về vốn ít và lực lượng lao động dồi dào. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đặt ra một vấn đề: lựa chọn công nghệ cần đổi mới trong từng thời kỳ, từng giai đoạn như thế nào cho phù hợp ngành nào, khâu nào, lĩnh vực nào cần lực chọn trình độ công nghệ ra sao để vừa đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa sản xuất, vừa tận dụng được tiềm năng lao động để tăng việc làm trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp đang là bài toán đặt ra cần được xem xét.

1.3.4. Yếu tố cơ cấu kinh tế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa cùng với việc thực hiện phân công lao động và hợp tác quốc tế tất yếu đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng một cơ cấu kinh tế mới.

Sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường làm cho mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ngày càng gay gắt. Việc tổ chức lại lao động trên phạm vi toàn xã hội, điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội cho phù hợp với cơ cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tất sẽ dẫn đến dư thừa lao động. Theo V.I. Lênin, thì sự phát triển kinh tế hàng hóa khiến một bộ phận ngày càng đông trong dân cư tách khỏi nông nghiệp, tức là nhân khẩu công nghiệp tăng lên làm cho nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống, V.I. Lênin nhắc lại luận điểm của C. Mác.

Do bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không ngừng giảm bớt nhân khẩu nông nghiệp so với nhân khẩu phi nông nghiệp, bởi vì trong công nghiệp (theo nghĩa hẹp của danh từ này) việc tư bản bất biến tăng lên làm giảm tư bản khả biến thường liên quan với sự tăng thêm tuyệt đối (dù là giảm bớt tương đối) của tư bản khả biến, còn trong nông nghiệp thì ngược lại, tư bản khả biến cần thiết để kinh doanh một khoảnh đất nhất định lại giảm bởi một cách tuyệt đối; do đó tư bản khả biến chỉ có thể tăng thêm khi có những đất mới

được canh tác, mà điều này lại đòi hỏi rằng nhân khẩu phi nông nghiệp phải tăng lên nhiều hơn nữa.

Xu hướng tách và đẩy lao động là rất lớn, trước hết là lao động ở khu vực nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Đó là sự không phù hợp giữa cơ cấu lao động cũ với cơ cấu nền kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch; chúng ta vừa thiếu lao động kỹ thuật, lao động chất xám, lại thừa khá nhiều lao động phổ thông, làm cho năng suất xã hội còn thấp. Từ đó dẫn đến các dòng “di chuyển” chất xám ngày càng lớn, chủ yếu là từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sự di chuyển lao động từ nông thôn ra các tỉnh lớn, các đô thị ngày càng tăng lên cùng với sự gia tăng các vấn đề xã hội nổi cộm cần phải giải quyết.

Do đó, việc làm cho người lao động phải lấy mục tiêu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế để xác định hướng phát triển. Để có một đội ngũ lao động đáp ứng những việc làm đa dạng phù hợp với cơ cấu kinh tế mới, ngay từ khâu đào tạo, bồi dưỡng, hướng nghiệp đến tổ chưc nơi làm việc, cần phải nắm bắt các cơ hội, đi tắt, đón đầu, hình thành những ngành kỹ thuật mũi nhọn, phát triển theo trình độ khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, tạo việc làm tập trung vào những khâu cần thiết và có thể thực hiện có hiệu quả các công nghệ tiên tiến, đồng thời cãi tiến công nghệ truyền thống nhằm tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng ở những thập kỷ sau.

1.3.5. Yếu tố thị trường lao động

Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội, tranh chấp lao động…) ở đó diễn ra sự trao đổi, thỏa thuận giữa một bên là người lao động.

Giải quyết việc làm trong cơ chế thị trường về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu về lao động trên thị trường lao động.

Cung về lao động biểu hiện khối lượng lao động (số lượng, chất lượng và cơ cấu của lực lượng lao động) tham gia vào thị trường lao động trong một thời gian nhất định.

Cầu về lao động là khả năng thuê lao động trên thị trường lao động.

Trên thị trường lao động, mức cung – cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp tới mức tiền lương và ngược lại, sự thay đổi mức tiền lương cũng làm thay đổi cung – cầu lao động, điều chỉnh quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường.

Khi cung lớn hơn cầu sẽ dẫn đến dư thừa lao động, làm gia tăng số người không có việc làm và ngược lại. Trên thị trường lao đọng, cung cầu lao động thường xuyên biến động và chịu sự tác động của nhiều yếu tố, tạo ra mâu thuẫn giữa cung và cầu. Đối với nước ta hiện nay, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, khả năng mở rộng sản xuất có hạn trong khi nguồn lao động dồi dào, tỷ lệ tăng cung lao động cao, cung lao động luôn luôn lớn hơn cầu, dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm, giảm thất nghiệp để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

1.3.6. Yếu tố các chính sách vĩ mô của Nhà nước nói chung và chính sách việc làm nói riêng

Các chính sách vĩ mô của Nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo việc làm, đồng thời điều chỉnh việc làm phù hợp với mục tiêu, trình độ phát triển của nền kinh tế trong từng thời kỳ.

Có rất nhiều chính sách tác động đến việc làm như chính sách tạo vốn, chính sách đất đai, chính sách thuế… hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau hướng vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động.

Khi các chính sách vĩ mô của nhà nước đúng đắn và thích hợp sẽ tạo ra nhân tố, môi trường, động lực khuyến khích các chủ doanh nghiệp, chủ sử dụng lao động mở rộng đầu tư nhằm thu lợi nhuận, tạo việc làm, khai thác tối ưu mọi nguồn lực vào mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược lại, khi các chính sách vĩ mô của nhà nước không phù hợp, nó sẽ kìm hãm và tạo nên tâm lý chán

nản trong đầu tư kinh doanh, quy mô sản xuất thu hẹp dẫn đến việc làm giảm sút.

Vì vậy, số lượng, chất lượng việc làm, khả năng tạo việc làm chính là một trong những thước đo quan trọng biểu hiện trình độ hoạch định và tính khả thi của hệ thống các chính sách vĩ mô của nhà nước trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội.

Từ quan điểm và lập luận trên đây, nhà nước ta đã có các chính sách kinh tế - xã hội chủ yếu tác động tới phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm như: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; chính sách khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu; chính sách tín dụng ưu đãi để các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ; chính sách khuyến khích tìm kiếm thị trường xuất khẩu lao động; chính sách giáo dục đào tạo nghề cho lao động; chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước thông qua chính sách đất đai, thuế, đầu tư…

1.3.7. Bộ máy tổ chức và nguồn lực thực hiện

Hệ thống các cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia thực hiện chính sách việc làm cần được tổ chức có hệ thống và đồng bộ, đồng thời việc phân công, phối hợp giữa các đơn vị, cá nhân và đặc biệt là vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu phải được xác định đầy đủ và rõ ràng. Trên thực tế qua quá trình triển khai thực hiện chính sách tạo việc làm trên cả nước đã có sự tham gia ngày càng rõ nét và hiệu quả của các doanh nghiệp trên địa bàn và các chức năng nhiệm vụ đào tạo. Sự phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức và các đoàn thể cần được chú trọng và phát huy.

Các nguồn lực tham gia, trước hết về nguồn nhân lực phải được đào tạo, huấn luyện, có đủ năng lực tổ chức và thực thi nhiệm vụ. Tổng thể các chính sách tạo việc làm khi triển khai có ý nghĩa quyết định tới sự thành công. Hơn nữa, người quản lý cần nhanh nhạy để kịp thời phát hiện và đề xuất điều chỉnh các vấn đề phát sinh, cần thiết phải đề nghị, bổ sung chính sách.

Trong quá trình thực hiện, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất luôn có vai trò và là một nhu cầu lớn. Các chính sác việc làm gần đây về cơ bản đã cân nhắc kỹ yếu tố này. Tuy vậy, tình trạng thiếu kinh phí thường xuyên xảy ra đã hạn chế quá trình triển khai. Bên cạnh đó, còn có tình trạng giải ngân chậm do khâu tổ chức, tác động xấu đến hiệu quả của chính sách. Với sự tham gia ngày càng rộng rãi của các tổ chức kinh tế vào thực hiện chính sách tạo việc làm, một mặt cần đảm bảo cân đối điều kiện cho việc thực thi chính sách thì mặt khác cũng cần tìm cách huy động các nguồn lực hỗ trợ của xã hội cho việc tổ chức thực hiện các chính sách tạo việc làm.

* Tiểu kết chương 1:

Chương 1 đã trình bày khái quát cơ sở lý luận về việc làm, chính sách việc làm cho một đối tượng đặc thù, đó là thanh niên. Việc làm, chính sách việc làm cho thanh niên là những quan niệm, phạm trù được không ít nhà quản lý, khoa học quan tâm nghiên cứu. Ở chương này, sau khi nêu một số khái niệm cơ bản, liên quan đến đề tài nghiên cứu, luận văn tiếp tục làm rõ, quy trình thực hiện chính sách việc làm và những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên hiện nay.

Vấn đề việc làm của thanh niên, chính sách việc làm cho thanh niên là một nội dung rất quan trọng trong các chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Việc hoạch định các chính sách về việc làm nói chung, việc làm cho thanh niên nói riêng là một nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của Đảng, Nhà nước, cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, trong đó có tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, để quá trình hoạch định và thực thi chính sách việc làm cho thanh niên sát, đúng và phù hợp từng địa phương, trong đó có tỉnh Đắk Lắk thì việc khảo sát thực trạng, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế là nội dung quan trọng để đánh giá đúng tình hình, nhận diện một cách đầy đủ, khách quan, trung thực những việc làm được và chưa làm được, góp phần cho việc tham mưu chính sách một cách tốt nhất và quá trình triển khai thực hiện chính sách sau này đem lại hiệu quả cao nhất có thể.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN TỈNH ĐẮK LẮK


2.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Đắk Lắk

2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên

Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, đầu nguồn của hệ thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, nằm trong khoảng tọa độ địa lý 107o28’57 đến 108o59’37 độ kinh Đông và từ 12o9’45 đến 13o25’06 độ vĩ Bắc, có độ cao trung bình 400 – 800 mét so với mặt nước biển, nằm cách Hà Nội 1.410km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350km.

- Phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai

- Phía Đông giáp: Phú Yên và Khánh Hòa

- Phía Nam giáp Lâm Đồng và Đắk Nông

- Phía Tây giáp Campuchia

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐẮK LẮK


Đắk Lắk có diện tích 13 125 37km 2 dân số toàn tỉnh tính đến ngày 01 4 2019 là 1

Đắk Lắk có diện tích 13.125,37km2, dân số toàn tỉnh tính đến ngày 01/4/2019 là 1.869.322 người, mật độ dân số đạt 143,71 người/km2. Trong đó, dân số sống tại thành thị đạt 462.118 người chiếm 24,72%, dân số sống tại nông thôn có 1.407.204 người cư trú, chiếm 75,28%. Tỷ số giới tính của dân số là

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 22/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí