nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh vượt qua giai đoạn khó khăn, duy trì sản xuất, trả lương và đóng bảo hiểm xã hội cho thanh niên: Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày 23/02/2009 về việc hỗ trợ đối với thanh niên mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế; Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 08/7/2009 về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn. Một số biện pháp hỗ trợ khác như: miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp, giãn thời gian nộp một số loại thuế (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; Nghị quyết số 08/2011/QH13 về ban hành bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân; Quyết định số 21/2011/QĐ-TTg ngày 06/4/2011 về gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tháo gỡ khó khăn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế...).
+ Chính sách xuất khẩu lao động
Chính sách đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là tổng thể các biện pháp do Nhà nước ban hành nhằm hỗ trợ thanh niên có thể tham gia vào thị trường lao động quốc tế, bao gồm hỗ trợ từ việc đào tạo tay nghề, dạy ngoại ngữ, cấp vốn, định hướng cho thanh niên tìm được thị trường phù hợp với năng lực và trình độ của bản thân mình.
Hiện nay, nước ta đã hình thành một hệ thống chính sách thúc đẩy việc làm ngoài nước, xây dựng các chương trình trọn gói từ đào tạo, cho vay vốn để hỗ trợ thanh niên khi về nước, đặc biệt là thanh niên thuộc hộ nghèo: Quyết định số 365/2004/QĐ-NHNN về việc cho vay vốn đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Quyết định số 143/2007/QĐ-TTg ngày 06/7/2007 về việc thành lập, quản lý Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước; Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 phê
duyệt Đề án hỗ trợ các thành phố nghèo đẩy mạnh XKLĐ góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2020.
+ Chính sách đào tạo nghề dạy nghề
Chính sách đào tạo nghề dạy nghề bao gồm các quyết định của Nhà nước có liên quan đến việc lựa chọn các mục tiêu, giải pháp, công cụ để thực hiện đào tạo nghề cho thanh niên. Từ đó, giúp thanh niên phát huy được năng lực của bản thân, tìm kiếm công việc phù hợp, tăng thu nhập và giảm thiểu tình trạng thất nghiệp chung trên cả nước.
Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay cả nước có khoảng hơn 25 triệu lao động nông nghiệp, chiếm 55,7% tổng lao động của cả nước. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề cho thanh niên ở nước ta chưa được coi trọng đúng mức. Để giải quyết thực trạng đào tạo nghề cho thanh niên nước ta, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho thanh niên đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Đề án này góp phần phát huy lợi ích thiết thực của việc dạy nghề, đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho thanh niên trong khối nông thôn, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho người nông dân trong sản xuất và nâng cao đời sống, cải tạo bộ mặt nông thôn Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách tạo việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Sơn La - 1
- Chính sách tạo việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Sơn La - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Chính Sách Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên
- Kinh Nghiệm Quản Lý Nhà Nước Về Chính Sách Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Tại Thành Phố Hòa Bình, Tỉnh Hòa Bình
- Tổng Giá Trị Gdp Trên Địa Bàn Thành Phố Từ Năm 2017-2019
- Kết Quả Điều Tra Về Thực Trạng Ban Hành Chính Sách Và Kế Hoạch Triển Khai Chính Sách Việc Làm Cho Thanh Niên Thành Phố Sơn La
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Công tác đào tạo nghề còn nhiều bất cập, không đem lại hiệu quả cao. Bởi lẽ, hiện nay, trên địa bàn thành phố chưa có trung tâm hướng nghiệp và tư vấn chọn ngành học cho thanh niên; Bên cạnh đó, các chương trình mục tiêu về hướng nghiệp trên địa bàn thành phố còn đơn lẻ, dàn trải, dẫn đến có hiện tượng thanh niên sau khi đào tạo nghề vẫn không tìm được việc; bản thân chính các trung tâm đôi khi cũng bị động trong việc tìm kiếm thông tin cần thiết để điều chỉnh những nội dung giảng dạy cho phù hợp với nhu cầu của nhiều đối tượng sử dụng lao động khác nhau; ngành nghề đào tạo chưa thực
sự đa dạng, chưa đáp ứng nhu cầu người học nghề; thiếu đội ngũ giáo viên giảng dạy, trình độ không cao, thiếu trang thiết bị dạy học và thực hành; Riêng đối với đào tạo nghề thủ công 97% số thợ học theo hình thức “cha truyền con nối”, ”cầm tay chỉ việc”.
Tổ chức thực hiện các chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên
a) Bộ máy tổ chức triển khai chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên ở địa phương
- Nhà nước và các cơ quan QLNN trung ương xây dựng, ban hành các văn bản liên quan đến công tác giải quyết việc làm cho người lao động. Nhà nước trao quyền cho Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là đầu mối trong việc triển khai, thực hiện các chính sách giải quyết việc làm tới địa phương.
- UBND các cấp phối hợp với các ban ngành đoàn thể, với các tổ chức chính trị xã hội vận động người dân chủ động tìm kiếm việc làm cũng như hỗ trợ việc cung cấp thông tin khi cần thiết.
- Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, UBND tỉnh giao việc thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho UBND cấp thành phố, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội, các cơ sở đào tạo tay nghề cho người lao động, các doanh nghiệp trên địa bàn.
b) Năng lực quản lý của bộ máy tổ chức:
Năng lực quản lý của bộ máy tổ chức trong công tác giải quyết việc làm cho thanh niên được thể hiện ở khả năng giải quyết các chế độ, chính sách tới người thanh niên; thể hiện qua thái độ và năng lực của cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi tiếp xúc, trao đổi với người dân.
Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên
Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh chính sách
Công tác thanh tra, kiểm tra giám sát cần được thực hiện thường xuyên nhưng cũng hết sức hạn chế để tránh gây ảnh hưởng tới hoạt động của các chủ
thể. Bên cạnh đó, cần đánh giá hiệu quả của việc thực hiện chính sách giải quyết việc làm để có sự điều chỉnh sao cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao hơn trong việc giải quyết nhu cầu việc làm cho thanh niên.
Giải quyết các khiếu nại tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm phạm luật Cơ quan QLNN dựa vào kết quả của các cuộc điều tra, thanh tra, đối
chiếu với các quy định trong các văn bản pháp luật đã ban hành và đang có hiệu lực để kịp thời xử lý các vi phạm. Các đơn vị chức năng này còn có vai trò là trọng tài để giải quyết các khiếu nại, tố cáo của các cá nhân tổ chức có liên quan đến việc triển khai chính sách giải quyết việc làm. Các biện pháp xử lý với các hành vi sai phạm cần minh bạch, rõ ràng, nghiêm khắc.
Đánh giá chính sách tạo việc làm cho thanh niên là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được khi ban hành và thực thi một chính sách công.
Việc nhìn nhận và đánh giá chính sách thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận hành như thế nào trên thực tế.
Tuy nhiên, chính sách công không chỉ thể hiện trong các quy định pháp luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương hoạt động của nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách công sẽ bao quát việc xem xét về tổng thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung ương và chính quyền địa phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong thực tiễn quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách cho phép xem xét, nhận định không chỉ về nội dung chính sách, mà còn về quá trình thực thi chính sách, từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục tiêu mong đợi.
1.2.4.Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách tạo việc làm cho thanh niên Điều kiện tự nhiên
Mỗi địa phương đều có những đặc điểm tự nhiên riêng biệt, điều này có ảnh hưởng rất lớn tới việc ban hành và thực thi tổ chức các chính sách giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn. Khi nói đến điều kiện tự nhiên là nói đến các yếu tố như vị trí địa lý, diện tích đất đai và tài nguyên khoáng sản.
Nếu một địa phương có vị trí địa lý thuận lợi (gần các bến cảng, bến sông, gần các trục giao thông, gần thành phố đô thị, có diện tích đất đai lớn) sẽ có điều kiện giúp người lao động tìm kiếm việc làm. Điều này cũng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, từ đó nền kinh tế địa phương ngày càng phát triển theo hướng CNH - HĐH. Theo đó, nhiều xí nghiệp, nhà máy, doanh nghiệp được hình thành sẽ thu hút nhiều lao động nông thôn. Vì thế, Nhà nước cần dựa vào tình hình thực tế của địa phương để có thể đưa ra những chính sách phù hợp và có lợi nhất cho thanh niên
Tài nguyên khoáng sản dồi dào cũng là một trong những điều kiện thuận lợi để phát triển các khu công nghiệp khai thác khoáng sản. Tuy nhiên chính quyền địa phương các khu vực này cũng cần hết sức quan tâm tới vấn đề làm sao để có thể khai thác tài nguyên một cách hiệu quả nhất, tránh làm lãng phí nguồn lực.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Điều kiện kinh tế ở đây được hiểu là trình độ phát triển kinh tế, là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn tới việc đưa ra và thực hiện các chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Điều kiện kinh tế của mỗi địa phương được thể hiện rõ nhất qua tổng giá trị sản phẩm và cơ cấu các ngành kinh tế, từ đó quyết định tới cơ cấu lao động địa phương. Khi kinh tế phát triển, nhu cầu sản xuất tăng cao, các nhà máy và xí nghiệp thiếu hụt lao động sẽ là cơ hội tốt cho những người lao động nông thôn có thể tìm kiếm được việc làm và tăng thu nhập. Ngược lại khi nền kinh tế địa phương phát triển chậm sẽ dẫn đến sản xuất bị đình đốn, thiếu việc làm. Nền kinh tế địa
phương kém phát triển dẫn đến sự yếu kém về giáo dục, trình độ học vấn và tay nghề của người lao động không đáp ứng được yêu cầu công việc. Đây là một trong những khó khăn đối với vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Điều kiện xã hội của địa phương được thể hiện qua dân số và cơ cấu dân số; chất lượng lao động và các vấn đề về văn hóa, phong tục tập quán hay an ninh trật tự xã hội. Với điều kiện xã hội như vậy, UBND huyện cần phải đưa ra và điều chỉnh các chính sách sao cho phù hợp nhất với điều kiện thực tiễn tại địa phương, đồng thời phát huy những tiềm năng, lợi thế của địa phương mình.
Điều kiện môi trường xã hội, an ninh trật tự cũng là yếu tố quan trọng quyết định tới các chính sách giải quyết việc làm. Nếu trật tự xã hội được đảm bảo, người dân sẽ an tâm đào tạo nghề và làm việc với tâm lý tin tưởng vào các cấp chính quyền. Theo đó, công tác giải quyết việc làm cho lao động nông thôn cũng trở nên dễ dàng hơn.
Chính sách, cơ chế khác của Nhà nước
Chính sách việc làm là một trong chính sách cơ bản của mỗi quốc gia. Thông qua tạo thêm việc làm và đảm bảo việc làm cho người lao động, chính sách việc làm có mục tiêu là nâng cao phúc lợi cho người dân, thực hiện công bằng xã hội, đảm bảo cho người dân hòa nhập xã hội, giảm dần sự tách biệt xã hội. Vì là một chính sách kinh tế - xã hội nên chính sách việc làm không thể tách rời khỏi các chính sách khác như chính sách dân số, chính sách an sinh xã hội, chính sách tiền tệ…
Chính sách dân số
Chính sách dân số là tổng thể các quy định của Tổng cục dân số về việc nới lỏng hay thắt chặt dân số, cũng như điều chỉnh cơ cấu dân số theo độ tuổi và theo giới tính. Những quy định này thường mang tính tương đối, nghĩa là
việc quyết định ban hành chính sách nới lỏng hay thắt chặt dân số và những quy định về cơ cấu dân số thay đổi phụ thuộc vào mật độ dân số, cơ cấu dân số theo giới, độ tuổi trong từng giai đoạn và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Chính sách dân số được thực hiện sau một thời gian sẽ tác động mạnh mẽ đến quy mô, cơ cấu dân số, từ đó quyết định đến quy mô, cơ cấu lao động. Dựa vào tình hình thực tiễn đó, Nhà nước cần ban hành các chính sách sao cho phù hợp nhất với tình hình lao động thực tiễn trên cả nước để đảm bảo mọi người lao động có nhu cầu đều có cơ hội tìm kiếm việc làm.
Chính sách an sinh xã hội
Chính sách an sinh xã hội tập trung vào bốn nội dung chính như sau: Một là, tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho người lao động yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình phát triển sản xuất, hỗ trợ tín dụng, giải quyết việc làm và kết nối thông tin thị trường lao động. Hai là, mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già. Ba là, hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (mất mùa, thiên tai, động đất, chiến tranh, đói nghèo,...) thông qua các khoản tiền mặt và hiện vật do ngân sách nhà nước bảo đảm. Bốn là, tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin. Như vậy, có tới hai trong số bốn nội dung liên quan đến người lao động. Do đó, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội sẽ tạo động lực và hỗ trợ tích cực và giảm thiểu gánh nặng đối với chính sách việc làm cho người lao động nói chung và người lao động nông thôn nói riêng.
Chính sách quy hoạch phát triển của địa phương
Mỗi địa phương có một lợi thế nhất định, vì thế, tùy từng điều kiện khác nhau mà có các chính sách quy hoạch, phát triển riêng. Theo đó, các cấp chính quyền có liên quan đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn cũng cần đưa ra những chính sách việc làm phù hợp với định hướng phát triển và cơ cấu ngành nghề của địa phương.
Nguồn lực tài chính thực hiện chính sách
Nguồn lực tài chính thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn có nguồn gốc từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, vốn của chủ dự án, chủ doanh nghiệp, của các nhà đầu tư và các nguồn vốn khác (vốn vay, vốn tự góp của người dân, nguồn vốn viện trợ nước ngoài...)
Khi đã có đầy đủ chính sách thì nguồn lực tài chính thực hiện chính sách là yếu tố quyết định chính sách đó có được thực thi hay không, thực hiên tốt hay không. Nhưng cũng cần đảm bảo sử dụng nguồn lực tài chính đúng người, đúng việc, tránh lãng phí và xử lý nghiêm minh các hành vi trục lợi từ nguồn lực tài chính đó.
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về chính sách tạo việc làm cho thanh niên ở một số địa phương
1.3.1.Kinh nghiệm quản lý nhà nước về chính sách tạo việc làm cho thanh niên tại thành phố Điện Biên, tỉnh Điện Biên
Xác định là thành phố miền núi, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn; trên địa bàn hiện chưa có cơ sở công nghiệp lớn, tiểu thủ công nghiệp nhỏ lẻ, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên trong nhiều năm qua thực hiện tốt chủ trương đẩy mạnh sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho NLĐ.
Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội: Thành phố ủy, UBND thành phố Điện Biên Phủ xác định là phải đặt trong tổng thể phát triển