Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu, giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm cho lực lượng lao động đó. Hay nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hóa pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm, phương hướng, mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
1.1.2.3. Chính sách việc làm cho thanh niên
Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào đưa ra định nghĩa cụ thể chính sách việc làm cho thanh niên. Theo Giáo trình Chính sách kinh tế - xã hội (Trường Đại học Kinh tế) khái niệm chính sách việc làm nói chung là: “Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, giải pháp và công cụ của Nhà nước nhằm sử dụng hợp lý lực lượng lao động và tạo việc làm cho lực lượng lao động đó”. Trong nghiên cứu này, trên cơ sở khái niệm chính sách công và chính sách việc làm nói chung để áp dụng cho nhóm đối tượng thanh niên nói riêng, tác giả đề xuất khái niệm sau: “Chính sách việc làm cho thanh niên là tổng thể các quan điểm, mục tiêu và hành động của Nhà nước được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho đối tượng có được việc làm phù hợp, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương nói riêng, cả nước nói chung”.
Chủ thể trực tiếp chịu trách nhiệm chính trong chính sách việc làm là Nhà nước bởi vì không ai khác ngoài Nhà nước có vai trò quản lý xã hội. Trong luận văn này bàn đến chính sách việc làm cho thanh niên, trong đó chủ thể chịu trách nhiệm chính là chính quyền địa phương, đối tượng thụ hưởng là thanh niên, do đó tổ chức Đoàn Thanh niên cũng là chủ thể có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình tổ chức thực thi chính sách này. Ngoài ra, còn có sự phối hợp của nhiều chủ thể khác như các doanh nghiệp, trường học, trung tâm dạy nghề và các tổ chức đoàn thể trên địa bàn.
Để hiểu hơn về việc làm cho thanh niên cần nghiên cứu những nét đặc trưng của giải quyết việc làm cho thanh niên. Xã hội ngày càng phát triển thì cơ cấu việc làm cho thanh niên cũng có sự biến đổi. Đối với những nước đang phát triển thì trên tổng thể là một thị trường dư thừa lao động, nhất là lao động phổ thông, tuy nhiên lại thiếu lao động trình độ cao. Kết quả là tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp luôn tồn tại, trong đó thanh niên thất nghiệp thường chiếm tỉ lệ cao nhất. Nguyên nhân thanh niên gặp khó khăn tìm việc trên thị trường lao động chủ yếu là do: Cung lao động rất lớn trong khi cầu lao động thanh niên lại rất chọn lọc. Trong xã hội ngày càng phát triển, thanh niên được tiếp xúc với nhiều kênh thông tin, giáo dục nên họ sớm ý thức được nhiệm vụ của bản thân và trách nhiệm với gia đình, xã hội... họ sớm muốn khẳng định mình do đó luôn có nhu cầu được tham gia vào công việc sớm. Thực tế cho thấy nhiều thanh niên đã tham gia vào lao động ngay khi còn đang đi học và không ít người đã đạt được thành cộng. Việc chuyển đổi từ đi học sang đi làm của lứa tuổi thanh niên cũng là một bước khẳng định sự trưởng thành và do đó họ luôn cố gắng hoàn thiện tốt công việc của mình. Độ tuổi thanh niên là độ tuổi có nhiều sự thay đổi về tâm sinh lý trong đó phải kể đến vấn đề chuyển đổi từ đi học sang đi làm. Đây là một thời điểm nhạy cảm của họ và nếu nó diễn ra suôn sẻ thì sẽ là một bước đệm tốt cho sự nghiệp sau này.
1.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về việc làm cho thanh niên
1.2.1. Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về thanh niên và chính sách việc làm cho thanh niên
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định vai trò quan trọng của thanh niên, lực lượng xung kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng vững chắc nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Theo đó, nhiều chủ trương, chính sách việc làm được ban hành nhằm tạo mọi điều kiện tối đa cho
Có thể bạn quan tâm!
- Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - 1
- Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - 2
- Nội Dung Thực Hiện Chính Sách Việc Làm Cho Thanh Niên
- Kinh Nghiệm Thực Hiện Chính Sách Việc Làm Cho Thanh Niên Thành Phố Nam Định, Tỉnh Nam Định
- Phân Tích Việc Thực Hiện Chính Sách Việc Làm Cho Thanh Niên
Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.
thanh niên có công việc ổn định, góp phần vào xây dựng và bảo về tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Có thể dẫn ra một số văn bản sau:
Tại hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Nghị quyết về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa", trong đó có nhấn mạnh nội dung: Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên, đây là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và tập trung chỉ đạo kịp thời trong thời gian qua với nhiều giải pháp cụ thể mang tính định hướng và bền vững như: Có chính sách tín dụng ưu đãi cho các cơ sở dạy nghề trên phạm vi cả nước, ưu đãi cho thanh niên được vay vốn giải quyết việc làm, chú trọng đến việc đi xuất khẩu lao động có thời hạn ở nước ngoài, trong đó quan tâm đến việc giáo dục ý thức kỷ luật, kỹ năng lao động, kỹ năng tay nghề cho thanh niên. Quan tâm đến việc đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn, dân tộc thiểu số và bộ đội xuất ngũ. Khuyến khích thanh niên vươn lên lập thân, lập nghiệp và làm giàu chính đáng, biểu dương, tôn vinh, nhân rộng các mô hình sản xuất kinh doanh tiêu biểu của thanh niên.
Trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Chính phủ đề ra 5 nhiệm vụ chủ yếu: Một là hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho thanh niên được học tập, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, bảo đảm giáo dục toàn diện về đức - trí - thể - mỹ; Hai là nâng cao chất lượng lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống thanh niên thông qua các các chính sách hỗ trợ, ưu đãi học nghề, tạo việc làm...; Ba là phát hiện, tuyển chọn, bố trí và sử dụng có hiệu quả tài năng trẻ trên tất cả các lĩnh vực ở các nhiệm vụ quan trọng, phù hợp, thu hút tài năng trẻ đang học tập, công tác, sinh sống tại nước ngoài tham gia phát triển đất nước; Bốn là xây dựng môi trường xã hội lành
mạnh, tạo điều kiện cho thanh niên nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, phát triển toàn diện, nghiên cứu, nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng làm cơ sở đề xuất các chủ trương, chính sách phát triển thanh niên; Năm là tăng cường vai trò tham gia giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức thanh niên đối với việc xây dựng, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về thanh niên và công tác thanh niên, đề xuất và trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thanh niên phù hợp với tình hình mới…
Nghị định số 12/2011/NĐ-CP ngày 30/01/2011 của Chính phủ quy định chính sách ưu đãi cho đơn vị thanh niên xung phong, đội viên thanh niên xung phong và cán bộ quản lý thanh niên xung phong tham gia phát triển kinh tế - xã hội, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với thanh niên xung phong.
Nghị định số 140/2017/NĐ-CP có nhiều quy định ưu tiên trong tuyển dụng thông qua xét tuyển (không phải thi tuyển), rút ngắn thời gian tập sự, hưởng phụ cấp tăng thêm; ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức; đặc cách cử tham dự kỳ thi nâng ngạch chuyên viên chính hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức; phong, thăng cấp bậc quân hàm sĩ quan quân đội, cấp bậc hàm sĩ quan công an;… dành cho sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ nhằm thu hút, tạo nguồn cán bộ ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến cấp Thành phố Buôn Ma Thuột; các đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang.
Trên cơ sở những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, một số Bộ, ngành, cơ quan ở Trung ương có liên quan đã xây dựng các đề án tuyển chọn các đối tượng thanh niên tình nguyện tham gia các chương trình, đề án, dự án quan trọng như:
Dự án tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học được tăng cường về làm Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã thuộc 64 Thành phố Buôn Ma Thuột nghèo trên cả nước của Bộ Nội vụ.
Dự án tăng cường trí thức trẻ tình nguyện đến công tác tại các khu kinh tế quốc phòng giai đoạn 2011 - 2020 của Bộ Quốc phòng.
Dự án các Làng thanh niên lập nghiệp tại các địa phương đã được chính phủ phê duyệt của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Quyết định số 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” với
nhóm đối tượng thanh niên là học sinh, sinh viên đang học tại các đại học, học viện, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp, học sinh đang học tại các trường trung học phổ thông và các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên trong toàn quốc; Cán bộ, giảng viên, giáo viên, người làm công tác hỗ trợ sinh viên trong các đại học, học viện, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp và giáo viên hướng nghiệp tại các trường trung học phổ thông và các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên trong toàn quốc.
Đồng thời, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định, chỉ thị để thực hiện chính sách việc làm dành cho thanh niên nói chung, theo đối tượng thanh niên cụ thể hoặc theo từng giai đoạn ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 là cơ sở để các cơ quan Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách, huy động mọi nguồn lực hợp pháp để phát triển thanh niên. Theo đó, kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam chia thành 02 giai đoạn: Giai đoạn I từ năm 2011 đến năm 2015, giai đoạn II từ năm 2016 đến năm 2020.
1.2.2. Mục tiêu, nội dung của chính sách việc làm cho thanh niên
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công... Người lao động được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
Hai là, phê chuẩn và thực hiện các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) liên quan đến thị trường lao động nước ta, đặc biệt là nước ta hiện nay đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế.
Ba là, phát triển mạnh khu vực dân doanh, trước hết là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ để nhanh tạo ra việc làm và khả năng thu hút lao động vào sản xuất; phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một doanh nghiệp; phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã trong nông nghiệp, đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông nghiệp và thị trường xuất khẩu lao động ngày càng phát triển cao hơn nữa.
Bốn là, Nhà nước cùng các doanh nghiệp quan tâm đào tạo công nhân có trình độ cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hoá đối với lao động trẻ, khoẻ, nhất là ở khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động.
Năm là, mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước khi thế mạnh của lao động nước ta về số lượng đông và trẻ. Tập trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho lao động xuất khẩu, nhất là thanh niên nông thôn để tạo điều kiện cho họ tiếp cận được với thị trường lao động của nhiều nước trên thế giới,
đặc biệt là với những nước có trình độ phát triển cao và đang có nhu cầu thu hút lao động.
Sáu là, mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề), cần mở rộng đào tạo và đào tạo lại số lao động nước ta để có cơ cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên. Trong đào tạo và đào tạo lại cần chuyển sang đào tạo theo định hướng đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất; tạo khả năng cung cấp lao động có chất lượng cao về tay nghề và sức khoẻ tốt, có kỹ thuật, tác phong công nghiệp, có văn hoá... cho thị trường trong nước và ngoài nước.
Bảy là, đa dạng hoá các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân và quốc tế; áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành thị trường dạy nghề phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ thống dạy nghề, kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia. Đối với tỉnh, thành phố phải có trường dạy nghề; các thành phố và Thành phố Buôn Ma Thuột cần có các trung tâm dạy nghề; cổ phần hoá các cơ sở dạy nghề công lập, phát triển cơ sở dạy nghề ngoài công lập để giảm chi phí ngân sách cho Nhà nước. Đa dạng hoá các kênh giao dịch trên thị trường lao động bằng việc thông qua các hệ thống thông tin, quảng cáo, trang tin việc làm trên các báo, đài và tổ chức các hội chợ việc làm để tạo điều kiện cho các quan hệ giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động ký kết các hợp đồng lao động theo đúng pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung, cả xuất khẩu lao động để giúp người lao động tìm kiếm việc làm được thuận lợi nhất.
1.2.3. Chủ thể thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên
Chính sách việc làm cho thanh niên có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của lao động thanh niên, có liên quan tới nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội. Vì vậy, trong quá trình tổ chức thực hiện cần huy động sự tham gia của các chủ thể.
Các chủ thể bao gồm:
- Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ: Ban hành chính sách, cơ chế tạo điều kiện về việc làm cho thanh niên; Lồng ghép chính sách, chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên, tạo việc làm cho thanh niên khi xây dựng chính sách, chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, lĩnh vực; Hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chính sách, pháp luật tạo việc làm cho thanh niên thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực; Hằng năm, báo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên theo ngành, lĩnh vực, gửi Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội để tổng hợp, báo cáo Chính phủ.
- Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp:
Hội đồng nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm: Ban hành nghị quyết về việc làm trong đó có việc làm cho thanh niên tại địa phương; Quyết định phân bổ dự toán ngân sách để tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch tạo việc làm cho thanh niên tại địa phương; Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên tại địa phương;
Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên và có trách nhiệm: Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch tạo việc làm cho thanh niên tại địa phương; Lồng ghép các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển thanh niên, tạo việc làm cho thanh niên khi xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương hằng năm và từng giai đoạn; Thực hiện công tác thống