Kinh Nghiệm Của Một Số Tỉnh Miền Trung Và Phía Nam Về Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực .

bước phát triển tiếp theo. Việc tăng số người đi học trong tổng số người trong độ tuổi lao động là một giải pháp vừa làm giảm sức ép về giải quyết việc làm trong những năm trước mắt, vừa có tác dụng nâng cao chất lượng NNL chuẩn bị cho các bước phát triển sau.

- Xuất phát từ việc coi trạng thái việc làm là một hệ thống bao gồm nhiều cấp bậc khác nhau: bộ phận có việc làm ổn định với năng suất cao, bộ phận việc làm với năng suất trung bình hoặc thấp và bộ phận việc làm không ổn định và tự điều tiết, Hà Nội đã đa dạng hóa các loại việc làm, các hình thức và biện pháp tạo việc làm và xây dựng một cơ chế mềm về quản lý, tổ chức và điều tiết quá trình việc làm trong xã hội thông qua “thị trường lao động”.

- Mặt khác, nâng cao trình độ trang thiết bị kỹ thuật và năng lực cho người lao động nhằm tăng năng suất lao động và tạo ra khu vực việc làm với kỹ thuật hiện đại có hiệu quả cao, có ý nghĩa dẫn dắt, lôi cuốn toàn bộ nền kinh tế vào quỹ đạo tăng trưởng và phát triển. Do đó Hà nội đã đổi mới công nghệ, thay thế những thiết bị và công nghệ cũ, lạc hậu bằng những máy móc và dây chuyền sản xuất tiên tiến, đẩy nhanh tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo thêm việc làm cho người lao động.

- Về việc sử dụng NNL nhất là đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật được Hà Nội rất quan tâm. Hà Nội là trung tâm khoa học kỹ thuật lớn mạnh nhất của Bắc Bộ cũng như cả nước. Là nơi tập trung nhiều Viện nghiên cứu đầu ngành, nhiều trường đại học, nhiều cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ quốc gia và quốc tế. Việc sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật không những có vai trò quyết định trong việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển toàn diện kinh tế Thủ đô, mà còn tạo điều kiện cho mỗi người có thể tìm được công việc phù hợp, có thu nhập cao hơn, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho mình. Thực hiện vấn đề này Hà Nội đã và đang tạo lập những cơ chế, chính sách “chiêu hiền đãi sỹ”, tôn vinh người

giỏi, bố trí công việc hợp lý trong các viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học, “tăng giá sức lao động” khuyến khích sự tham gia đông đảo của đội ngũ này cho quá trình phát triển kinh tế. Bên cạnh đó Hà Nội đã có sự đầu tư cho đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật.

Thứ hai, đào tạo và đào tạo lại lao động và đội ngũ cán bộ là các nhà quản lý.

Đào tạo lại và đào tạo mới lao động và đội ngũ cán bộ lý là để đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH Thủ đô. Để giải quyết công việc này Hà Nội đã thực hiện nhóm các giải pháp:

- Khuyến khích phát triển hệ thống dạy nghề ở tất cả các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp. Triển khai quá trình đào tạo, dạy nghề từ trong các trường phổ thông cho học sinh.

- Hệ thống đào tạo do nhà nước quản lý hướng vào đào tạo cơ bản, tập trung, dài hạn theo hệ chuẩn; đào tạo ngắn hạn, không tập trung được khuyến khích mở rộng để thoả mãn nhu cầu đa dạng của các ngành, các đơn vị kinh tế cơ sở.

- Khuyến khích và có hình thức thích hợp tranh thủ chất xám, trình độ khoa học, kỹ thuật cao của các Viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học, các trường đại học trên địa bàn Hà Nội trong việc giúp đào tạo, đào tạo lại, nâng cao chất lượng lao động ở Thủ đô, cũng như giúp cho việc nâng cao chất lương NNL của các địa phương khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

- Mở rộng sự hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ, công nhân kỹ thuật với nhiều hình thức phong phú như kết hợp đưa công nhân đi đào tạo, có thể tranh thủ các nguồn tài trợ, các dự án của các tổ chức quốc tế, các công ty nước ngoài, mời chuyên gia sang đào tạo.

Ngoài ra Hà Nội còn tập trung vào việc đào tạo lại cho số cán bộ, công nhân kỹ thuật với nhiều hình thức linh hoạt để họ nhanh chóng nắm bắt những

Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương - 5

kiến thức mới, đáp ứng kịp thời yêu cầu mới mà nền kinh tế thị trường đang đặt ra.

Tóm lại, mặc dù NNL có ưu thế chất lượng cao hơn các tỉnh thành khác trong cả nước song để chuẩn bị các điều kiện cho sự phát triển trong giai đoạn mới, việc chuẩn bị con người vẫn luôn được Hà Nội chú trọng. Với những giải pháp trên của Hà Nội cho chúng ta thấy giải quyết vấn đề thu nhập, nâng cao mức sống cho lao động, đào tạo và đào tạo lại NNL là những giải pháp trực tiếp quyết định đến chất lượng NNL.

- Giải quyết vấn đề chất lượng nguồn nhân lực ở Hà Tây.

Hà Tây là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Là tỉnh có số dân lớn nhất đồng bằng sông Hồng. Tốc độ dân số tự nhiên cao (1,3% năm). Gần 90% dân số sống ở nông thôn. Tỷ lệ lao động/ tổng số dân hơn 60%. Hàng năm số lao động bổ sung thêm khoảng 2,5 đến 3 vạn người. Số lao động trong độ tuổi có xu hướng trẻ hoá. Lao động trong khối cơ quan quản lý nhà nước phần lớn đã tốt nghiệp đại học. Trong khối sản xuất kinh doanh cũng có nhiều kỹ sư, chuyên gia có trình độ kỹ thuật, quản lý kinh tế. Song nhìn tổng thể có thể nói: hạn chế của NNL Hà Tây là thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề, nhiều người chưa qua trường lớp đào tạo; chủ yếu làm việc bằng kinh nghiệm, tự học hỏi hoặc qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, cấp tốc, thiếu lao động có kiến thức và kinh nghiệm quản lý.

Một trong những nhiệm vụ hàng đầu để Hà Tây giải quyết vấn đề chất lượng NNL hiện nay đó chính là đào tạo và sử dụng NNL. Đẩy mạnh giáo dục và đào tạo đồng thời sử dụng lao động hợp lý, có hiệu quả Hà Tây đã và đang thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể như:

- Tiếp tục xã hội hoá giáo dục và đào tạo: Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể về tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề. Huy động mọi nguồn lực cho

giáo dục và đào tạo. Khuyến khích đầu tư, phát triển các trung tâm dạy nghề, các cơ sở dạy nghề trong các thành phần kinh tế, các làng nghề.

- Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp: Xây dựng va mở thêm một số trung tâm dạy nghề tại các khu công nghệ cao, các làng nghề. Đầu tư thêm các trang thiết bị dạy nghề ở các trung tâm dạy nghề và trung tâm kỹ thuật tổng hợp để tạo điều kiện cho học sinh được rèn luyện, thực hành các thao tác kỹ năng nghề. đồng thời phát động phong trào thi đua tự tạo thiết bị dạy học.

- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý: Nâng cao chất lượng đào tạo NNL, ngoài việc tăng cường cơ sở vật chất, Hà Tây rất quan tâm đến đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Để nâng cao trình độ giáo viên tỉnh đã giành một phần ngân sách và có cơ chế hỗ trợ cho các giáo viên đi học tập. Kết hợp với các doanh nghiệp đưa lao động đi bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn tay nghề. Đối với cán bộ quản lý, cho theo học các lớp nghiệp vụ để nâng cao trình độ và thức trách nhiệm.

- Để nâng cao về mặt thể chất NNL, Hà Tây đẩy mạnh việc sử dụng lao động thông qua tạo việc làm mới, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho lao động. Tỉnh đã chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế nông thôn trên các lợi thế của tỉnh. Đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh qui mô vừa và nhỏ. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

- Tăng cường vai trò của nhà nước và chính quyền đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo và sử dụng NNL có hiệu quả: Trong những năm qua UBND tỉnh Hà Tây đã tăng cường sự quản lý nhà nước và thực hiện tăng dần tỷ trọng đầu tư ngân sách hỗ trợ cho phát triển giáo dục, đào tạo. Có chính sách hỗ trợ về tài chính đối với việc đào tạo NNL cho miền núi. Tỉnh đã có sự

đổi mới cơ chế chính sách sử dụng NNL nhằm phát huy được vai trò tích cực của nó trong nền kinh tế thị trường cũng như trong quá trình CNH, HĐH.

1.2.3.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh miền Trung và phía Nam về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

- Xây dựng nguồn nhân lực ở Đà Nẵng.

Là nơi có vị trí quan trọng cả về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, nằm trong khu vực trọng điểm miền Trung, vì vậy xây dựng chiến lược phát triển KT- XH phải dựa trên cơ sở phát triển NNL.

Để nâng cao chất lượng NNL, Đà Nẵng đã tập trung vào một số việc trọng điểm như:

+ Thực hiện chính sách về dân số và phân bố lại dân cư

Giáo dục tuyên truyền về chính sách dân số nhằm mục tiêu thay đổi nhận thức tư duy của người dân, đặc biệt là thanh niên, xoá bỏ những quan niệm về con cái: “Nối dòi tông đường”, “Cháu đích tôn” Giúp cho họ hiểu đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới đói nghèo, lạc hậu.

Để thực hiện chính sách dân số Đà Nẵng áp dụng cả những biện pháp kinh tế- hành chính đối với từng đối tượng dân cư và lao động. Cán bộ công chức ngoài tăng cường giáo dục thông qua sức ép dư luận và các chỉ tiêu thi đua để họ thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Đối với dân cư ở khu vực nông thôn, trong chính sách KT- XH của thành phố đã có sự hướng vào giúp đỡ về vốn, kỹ thuật cho những người nghèo, vùng có trình độ dân trí thấp để họ phát triển sản xuất từ đó giáo dục, triển khai kế hoạch hoá gia đình, tạo cơ sở sâu xa để hạ tỷ lệ gia tăng dân số, nâng cao chất lượng dân cư.

Bên cạnh việc tuyên truyền giáo dục về chính sách dân số, Đà Nẵng thực hiện phân bố hợp lý dân cư và lao động giữa thành thị và nông thôn. Khuyến khích, tạo lập môi trường thuận lợi để kích thích quá trình phân bổ lại dân cư như: các thủ tục thuận lợi về di chuyển hộ khẩu, chính sách đất đai hợp lý, hỗ

trợ vốn cho các đối tượng di dân. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để cải thiện nâng cao mức sống của dân cư.

+ Cùng với thực hiện chính sách dân số, Đà Nẵng đã xác định phát triển giáo dục đào tạo là giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng NNL.

Trong quá trình đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo tỉnh luôn đảm bảo sự hợp lý giữa quy mô và chất lượng đào tạo. Tỉnh đã làm tốt công tác phân loại chất lượng học sinh phổ thông để hướng học sinh dự thi vào các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề phù hợp. Thực hiện tốt kế hoạch đào tạo chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về cơ cấu cán bộ cho thực tiễn CNH, HĐH mà trước hết tập trung vào đào tạo đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật cho các ngành sản xuất trong các khu công nghiệp , khu chế xuất. Tỉnh đã thực hiện đầu tư cho giáo dục một phần lớn ngân sách hàng năm cho giáo dục và đào tạo. Cùng với đào tạo mới, việc bồi dưỡng, đào tạo lại NNL cũng được rất quan tâm. Nhìn chung, trong những năm qua Đà Nẵng đã tạo ra môi trường thuận lợi nhất cho mọi người có cơ hội được giáo dục, đào tạo và phát triển toàn diện.

+ Về sử dụng lao động và tạo động lực NNL đặc biệt là NNL thuộc tầng lớp trí thức: khuyến khích các chủ sử dụng lao động sử dụng lao động đúng chuyên môn, trình độ được đào tạo. Xây dựng các chính sách về nghĩa vụ của các tổ chức KT- XH và các doanh nghiệp sử dụng NNL, đồng thời hỗ trợ và tạo việc làm cho người lao động đã qua đào tạo.

Đối với lực lượng lao động trí tuệ, vấn đề tạo động lực kích thích để họ đem lại hiệu quả kinh tế cao Đà Nẵng đã có sự sắp xếp tổ chức lao động thành một hệ thống theo cấp bậc và trình độ, điều chỉnh chế độ tiền lương, phụ cấp ưu đãi.

Tóm lại, để nâng cao toàn diện chất lượng NNL Đà Nẵng đã thực hiện đồng thời nhiều giải pháp. Vì vậy chất lượng NNL ở đây có sự chuyển biến

đáng kể. Đó cũng là nguyên nhân cơ bản thúc đẩy phát triển KT- XH của tỉnh một cách mạnh mẽ trong thời gian qua.

- Phát triển giáo dục- đào tạo với mô hình mới để nâng cao chất lượng NNL của thành phố Hồ Chí Minh.

Nếu như các tỉnh thành khác trong cả nước đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đào tạo, tăng cường giáo dục đào tạo nghề cho NNL thì ngoài những việc trên thành phố Hồ Chí Minh đã rất chú trọng xây dựng, phát triển mô hình giáo dục mới để nhằm đào tạo NNL có chất lượng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH hiện nay.

Là một trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, trong quá trình phát triển luôn đặt ra những yêu cầu rất cao đối với NNL, thành phố Hồ Chí Minh đã hoàn thiện quy hoạch phát triển theo hướng đa dạng hoá hệ thống các loại hình giáo dục. Phát triển mô hình giáo dục mở với những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng yêu cầu học thường xuyên của người dân. Đẩy mạnh xã hội hoá với chuẩn hoá, hiện đại hoá; thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển trường học, đặc biệt trường trung học chuyên nghiệp dạy nghề; đẩy mạnh khuyến học, khuyến tài đi đôi với nâng cao vai trò quản lý nhà nước về giáo dục- đào tạo.

Trong huy động sức mạnh tổng hợp của xã hội đầu tư, chăm lo cho giáo dục, “cái mới” trong cách thức huy động ngành giáo dục thực hiện đó là: Căn cứ vào đặc điểm và vị trí của thành phố, ngành đã chủ động tham mưu với Bộ Giáo dục và đào tạo, lãnh đạo thành phố về sự phát triển nói chung và yêu cầu nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục và đào tạo. Phối hợp chặt chẽ với các ban ngành đoàn thể ở các địa phương thực hiện các nhiệm vụ đề ra và thường xuyên gắn bó với các cơ quan thông tấn báo chí, thiết lập chế độ giao ban thường kỳ với phóng viên giáo dục để kịp thời thông tin và tranh thủ sự đóng góp ý kiến của xã hội cho giáo dục và đào tạo.

Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, thực hiện chính sách xã hội hoá giáo dục, thành phố nâng cấp giáo dục, đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế bằng cách tạo điều kiện cho đông đảo học sinh du học tại chỗ, điều tiết ngân sách đầu tư vào các khu vực khó khăn, tạo sự bình đẳng, công bằng trong giáo dục.

Đối với công tác quản lý giáo dục và đào tạo, với yêu cầu quản lý về chất lượng và quy mô lớn thành phố đã tổ chức thực hiện có hiệu quả bằng việc điện tử hoá hệ thống quản lý từ thành phố đến các phòng giáo dục quận, huyện . Thành lập trung tâm thông tin và chương trình của ngành để tiếp nhận và truyền đạt thông tin, đặc biệt là các thông tin tiên tiến và những phần mềm dạy học tốt, góp phần đẩy nhanh tiến độ HĐH giáo dục.

Như vậy, ở thành phố Hồ Chí Minh việc giải quyết vấn đề chất lượng NNL cũng được xác định qua giải pháp chủ yếu là phát triển giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, với yêu cầu ngày càng cao đặt ra cho NNL thành phố đã có bước đột phá so với các tỉnh thành khác là xây dựng mô hình giáo dục hiện đại.

Tóm lại, ở các địa phương giáo dục và đào tạo được nhìn nhận không chỉ là một động lực của sự phát triển mà còn là một trong những hướng ưu tiên nhất trong giải quyết vấn đề nâng cao chất lượng NNL. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng NNL toàn diện còn được thực hiện qua các giải pháp về dân số, về sử dụng và quản lý NNL. Dù vậy cũng cần phải thấy rằng, tuỳ theo điều kiện thực tế của mỗi địa phương mà trong các giải pháp đó cần có sự điều chỉnh cho phù hợp.

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 28/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí