Quan Điểm Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Và Đào Tạo Nghề Trong Phát Triển Nguồn Nhân Lực Ở Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào Hiện Nay


đổi của xu hướng lựa chọn học nghề của các em học sinh trung học cơ sở trong thời gian qua.

Qua bài phỏng vấn trực tiếp Ông Bun Phênh SỔM CHĂN MA VÔNG, Phó Cục trưởng Giáo dục nghề nghiệp, ông nhận định: “Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu nhân lực phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Đối với Lào hiện nay, nhu cầu nguồn nhân lực có tay nghề cao là hết sức cần thiết và mục tiêu đề ra đến năm 2020, tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp Trung học cơ sở đi học nghề phải đạt ít nhất 30% mới đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong nước” (Phỏng vấn của tác giả luận án vào ngày 20 tháng 1 năm 2020, tại Cục Giáo dục nghề nghiệp, Bộ Giáo dục và Thể thao).

Nhưng trên thực tế, số học sinh sau Trung học cơ sở có nhu cầu đi học Trung học phổ thông để sau đó thi vào đại học chiếm tỷ lệ cao. Nếu cứ làm theo cách cũ, việc phân luồng học sinh sau Trung học cơ sở năm 2020 và lâu hơn khó có thể đạt được mục tiêu ít nhất 30% học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở tiếp tục học tập tại các cơ sở giáo dục và đào tạo nghề; đến năm 2025 là 40% theo Chiến lược Phát triển Giáo dục và đào tạo nghề giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ Giáo dục và Thể thao. Ông Bun Phênh SỔM CHĂN MA VÔNG còn phân tích thêm: Một trong những nguyên nhân dẫn tới việc phân luồng khó khăn, là do công tác hướng nghiệp trong các trường Trung học cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, nhất là giáo dục nghề nghiệp qua môn học và tư vấn hướng nghiệp.

Việc học nghề phổ thông chỉ nhằm vào mục đích cộng điểm thi tốt nghiệp là chính, bên cạnh đó, còn có nguyên nhân từ tâm lý xã hội, đặt nặng vấn đề bằng cấp. Nhiều phụ huynh chỉ muốn con em tiếp tục học Trung học phổ thông, cao hơn nữa là học lên đại học và bậc học cao hơn chứ không muốn cho đi học nghề.

Nhìn nhận những bất cập nêu trên, giải quyết mâu thuẫn này cần phải nhận thức đúng và quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực là “đột phá chiến lược”, nền giáo dục nói chung, giáo dục và đào tạo nghề nói riêng mới có được những khởi sắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.


Tiểu kết chương 3


Những năm qua, công tác giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực ở nước CHDCND Lào có nhiều chuyển biến mới. Lực lượng lao động Lào có ưu thế là lao động trẻ chiếm đa số và được bổ sung liên tục hàng năm. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng lao động chưa đáp ứng kịp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực tế cho thấy, lực lượng lao động trẻ có ưu thế về thể lực, trình độ học vấn và khả năng tiếp thu nhanh các kiến thức, kỹ năng lao động mới, tính cơ động cao. Song, lực lượng lao động Lào vẫn còn thiếu những phẩm chất cần thiết cho nền sản xuất công nghiệp hiện đại, như: tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần trách nhiệm và hợp tác. Hơn nữa, vấn đề việc làm, thu nhập vẫn đang là nỗi lo thường xuyên của người lao động và là vấn đề bức xúc của xã hội. Việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực phải trở thành yêu cầu hàng đầu trong những năm tới. Cần có sự thay đổi trong cơ cấu lao động theo xu hướng tăng lên về số lượng lao động công nghiệp và dịch vụ, khắc phục tình trạng lạc hậu trong cơ cấu nghề nghiệp và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tính kỷ luật,..., của người lao động trong xã hội công nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.

Việc đào tạo, xây dựng lực lượng lao động có trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có sức khỏe, lao động giỏi, kỷ luật lao động tốt là rất quan trọng, song việc quản lý và sử dụng, phát huy tối đa trí lực, thể lực, tâm lực của người lao động trong phát triển kinh tế - xã hội của Lào cũng quan trọng không kém. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực ở Lào cũng như nhận diện rò những vấn đề bất cập đang đặt ra sẽ giúp chúng ta hiểu hơn và tìm ra những giải pháp đúng đắn để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực của đất nước.


Giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay - 16

Chương 4

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ

NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY


4.1. QUAN ĐIỂM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

4.1.1. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề phải quán triệt quan điểm giáo dục và đào tạo là “ưu tiên hàng đầu”

Đây là quan điểm giữ vị trí chủ đạo, định hướng cho sự phát triển của giáo dục và đào tạo ở Lào trong thời gian tiếp theo. Giáo dục và đào tạo nghề là một nội dung quan trọng của giáo dục và đào tạo nói chung, do đó, việc quán triệt quan điểm giáo dục và đào tạo là “ưu tiên hàng đầu” là đòi hỏi tất yếu mang tính bản chất. Quán triệt quan điểm “ưu tiên hàng đầu” của giáo dục và đào tạo vào trong giáo dục và đào tạo nghề sẽ làm cho các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Lào được cụ thể hóa khi xác định cơ chế, chính sách và sự phát triển của giáo dục và đào tạo nghề trong thực tiễn. Là một lĩnh vực của giáo dục và đào tạo, giáo dục và đào tạo nghề cũng phải thể hiện đầy đủ quan điểm, tầm nhìn của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, các bộ, ban, ngành, địa phương trong định hướng phát triển của chính giáo dục và đào tạo nghề. Cụ thể hóa quan điểm trong thực tế, cần:

Một là, Đảng và Nhà nước cần phải nhận thức thấu đáo hơn nữa vị trí, vai trò của nhiệm vụ giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực trước những tác động mới của tình hình, đặc biệt là trước tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Bí thư, Bộ Chính trị và các Quyết định, Quy định về công tác giáo dục và đào tạo nghề cần được coi là một nội dung ưu tiên trong xây dựng và ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Hướng dẫn của Đảng, Quyết định, Quy định thực hiện của Nhà nước, Chính phủ. Quốc hội cần coi việc tiếp tục sửa đổi các bộ Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp là ưu tiên trong quá trình hoạt động, trong các kỳ họp Quốc hội.


Hai là, ưu tiên trong đầu tư nguồn lực. Giáo dục là quốc sách hàng đầu, do đó nền giáo dục luôn được ưu tiên đi trước một bước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội…

Ngoài việc ưu tiên đầu tư từ ngân sách trung ương với cơ cấu và tỷ lệ thích đáng, phù hợp cho công tác phát triển giáo dục và đào tạo nghề. Đảng và Nhà nước, các bộ, ban, ngành từ Trung ương tới địa phương cần thu hút, xã hội hóa thêm các nguồn đầu tư từ các cộng đồng, các thành phần kinh tế, các giới kinh doanh trong và ngoài nước, đi đôi với việc sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư cho giáo dục - đào tạo và đào tạo nghề. Đồng thời, yêu cầu những doanh nghiệp sử dụng người lao động được đào tạo có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách phục vụ trở lại cho nhiệm vụ giáo dục và đào tạo nghề.

Ba là, các ngành, các cấp phải quan tâm xây dựng nguồn lực đào tạo nghề. Các bộ ngành, địa phương cần phải tập trung phát triển nhân lực có kỹ năng nghề; tăng cường chuyển đổi số và đào tạo trực tuyến, chú trọng đào tạo lại và đào tạo thường xuyên lực lượng lao động để tạo chuyển biến mạnh mẽ về quy mô, chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo nghề; bảo đảm người học có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số, kỹ năng mềm, kỹ năng khởi nghiệp và ngoại ngữ… thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động; làm tốt công tác dự báo nhu cầu nhân lực theo ngành nghề và các cấp trình độ. Cùng với đó, xây dựng và cập nhật dữ liệu mở về lao động có kỹ năng nghề theo từng lĩnh vực, ngành nghề; rà soát, sắp xếp lại hệ thống cơ sở giáo dục và đào tạo nghề; nhanh chóng ổn định tổ chức, đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, bảo đảm chất lượng và hiệu quả của các cơ sở giáo dục và đào tạo nghề sau khi tổ chức, sắp xếp lại.

Bốn là, ưu tiên xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách để phát triển giáo dục và đào tạo nghề. Theo đó, cần rà soát lại các cơ chế, chính sách hiện có để tiến hành sửa đổi, bổ sung những nội dung mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn; tạo dựng các cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo; đổi mới chế độ học phí phù hợp với sự phân tầng thu nhập trong xã hội, loại bỏ những đóng góp không hợp lý, nhằm bảo đảm tốt hơn kinh phí giáo dục và đào tạo nghề; đồng thời, cải thiện điều kiện học tập cho học sinh, sinh viên nghèo; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và gia


đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với giáo dục và đào tạo nghề.

4.1.2. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực phải gắn kết giữa giáo dục và đào tạo nghề với nhu cầu của thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp

Giáo dục và đào tạo nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động là xu hướng tất yếu trong cơ chế thị trường nhằm mang lại lợi ích cho cả cơ sở giáo dục nghề nghiệp, sinh viên và thị trường lao động. Do đó, giáo dục và đào tạo nghề không chỉ bảo đảm nguồn nhân lực lao động kỹ thuật cho nền kinh tế mà còn góp phần giải quyết việc làm, nâng cao mức sống cho người dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và thực hiện chính sách công bằng trong dạy nghề.

Việc gắn kết giữa giáo dục và đào tạo nghề với nhu cầu của thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp đòi hỏi thực hiện một số yêu cầu cụ thể như sau:

Một là, đối với vai trò quản lý Nhà nước. Đổi mới và tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong việc xây dựng mối gắn kết bền vững giữa nhà trường và doanh nghiệp. Theo đó, Nhà nước cần có chính sách, cơ chế phối hợp chặt chẽ về nguồn nhân lực giữa nhà trường và doanh nghiệp. Tăng quyền tự chủ cho nhà trường. Nhà trường cần được tự chủ và chủ động về quy mô đào tạo, hình thức tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo, thu chi nguồn tài chính. Khuyến khích cạnh tranh giữa các cơ sở đào tạo để tăng động lực phát triển giữa các nhà trường với nhau về chất lượng sản phẩm đào tạo, uy tín cũng như hình ảnh, thương hiệu của nhà trường. Cần có trung tâm dự báo về nhu cầu đào tạo và có sự phối hợp với các ngành ở địa phương, sự tham gia của nhà trường và doanh nghiệp để đảm bảo gắn chặt giữa đào tạo với sử dụng. Cần có cơ chế, chính sách hữu hiệu để thúc đẩy sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin về nhu cầu lao động và hỗ trợ trong quá trình đào tạo.

Hai là, đối với nhà trường. Sự gắn kết với doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình đào tạo. Nhà trường cần phải tự mình nâng cao năng lực đào tạo, xây dựng chuẩn đầu ra cho người học cần có sự tham khảo nhu cầu thị trường và doanh


nghiệp. Từ đó, nhà trường xây dựng khung chương trình giảng dạy, biên soạn và cải tiến giáo trình giảng dạy cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và yêu cầu của từng giai đoạn phát triển.

Thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục bằng việc liên kết về tài chính và cơ sở vật chất, tạo điều kiện cho đội ngũ doanh nhân trực tiếp tham gia giảng dạy. Nhà trường muốn có nguồn tài chính dồi dào cần phải thực hiện tốt công tác xã hội hóa dựa vào doanh nghiệp và nhà tài trợ (mạnh thường quân) dưới các hình thức: học bổng cho sinh viên học giỏi, hoặc sinh viên nghèo vượt khó, cung cấp nguồn nhân lực cho công tác giảng dạy, hợp đồng nghiên cứu khoa học...; đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu; tăng cường chặt chẽ hơn nữa về mối quan hệ giữa cựu sinh viên với nhà trường, tạo cơ chế để những cựu sinh viên đang làm việc tại doanh nghiệp liên hệ thường xuyên với nhà trường. Đây là cầu nối vững chắc giữa nhà trường và doanh nghiệp, rất hiệu quả, rất thiết thực. Qua sự liên kết này, nhà trường sẽ cải tiến chương trình đào tạo theo từng thời điểm sao cho phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp.

Ba là, đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có kế hoạch cụ thể và lâu dài trong việc phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp bằng nhiều cách thức khác nhau, có thể là cử người đi học tại các trường, trung tâm, đi học tập nước ngoài, mời hoặc tuyển dụng người có trình độ chuyên môn tay nghề cao… nhưng có một cách hữu hiệu nhất là việc gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với nhà trường trong việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.

Doanh nghiệp một mặt cùng tham gia đào tạo bằng cách góp ý kiến về xây dựng, đánh giá và cải tiến chương trình đào tạo; hỗ trợ tài chính cũng như cơ sở vật chất bằng các hình thức như hỗ trợ học bổng cho sinh viên, ký kết các hợp đồng tư vấn, nghiên cứu khoa học. Mặt khác, doanh nghiệp có thể hỗ trợ tài chính cho nhà trường bằng việc hỗ trợ đầu tư cho khu công nghệ, khu thực hành, giảng đường, phòng thí nghiệm và trang thiết bị; doanh nghiệp cử các chuyên viên, chuyên gia, kỹ sư, công nhân lành nghề tham gia trực tiếp giảng dạy hoặc hướng dẫn thực hành tại nhà trường hoặc tại doanh nghiệp.


Bốn là, đối với người học. Khi đã chọn trường và ngành học thì người học cần xác định rò tầm quan trọng của ngành nghề để có cách tiếp nhận và học tập đúng đắn. Ngoài nội dung học trên lớp, người học cần học và tìm hiểu thêm kiến thức trên sách vở, báo chí, bạn bè, mạng Internet… tham gia các diễn đàn, thuyết trình, hội thảo về chuyên ngành giữa nhà trường và doanh nghiệp, tham gia vào các nhóm nghiên cứu khoa học tăng khả năng tư duy, phát hiện và xử lý vấn đề; tham gia thực tập thực tế theo chuyên ngành đào tạo tại các doanh nghiệp nhằm vận dụng kiến thức đã tiếp nhận ở nhà trường vào thực tế doanh nghiệp, trau dồi kinh nghiệm, lòng tự tin, bản lĩnh tìm cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp. Mặt khác, người học phải tạo được tâm lý ổn định, vững vàng và phải có lòng yêu nghề, có mục tiêu, định hướng rò ràng trong quá trình học tập.

4.1.3. Gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục và đào tạo nghề với nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao

Hiện nay, trước tác động mạnh mẽ của các cuộc cách mạng khoa học công nghiệp, đặc biệt là tác động trực tiếp của cuộc Cách mạng khoa học lần thứ tư, đã đem lại cho con người, đời sống của con người nhiều sự thay đổi mạnh mẽ. Tình hình việc làm, loại hình, đặc thù của quá trình lao động con người cũng có nhiều biến đổi mang tính tất yếu do những xu thế của khoa học và công nghệ mới tạo ra.

Khoa học và công nghệ mới đang tạo ra nhiều loại hình công việc mới đòi hỏi trình độ, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động; nhưng cũng đã làm cho nhiều ngành nghề, loại hình công việc không còn tồn tại. Do đó, vấn đề đặt ra với mỗi quốc gia, dân tộc, trong đó có cả CHDCND Lào, là phải nghiên cứu, nắm bắt được các xu thế về lao động, việc làm mới do khoa học và công nghệ mới định hình để thay đổi phương thức giáo dục và đào tạo nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu, xu thế công việc trong tương lai.

Như vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề ở Lào hiện nay phải tính đến tác động của khoa học - công nghệ mới. Đây là một quan điểm quan trọng, giữ vị trí định hướng cho các loại hình ngành nghề trong tương lai. Bởi khoa


học và công nghệ sẽ tạo ra những đột phá về tư duy và công nghệ mới, làm thay đổi tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có tác động không nhỏ đến vấn đề lao động và giáo dục nghề nghiệp.

Cách mạng về khoa học và công nghệ đặc biệt là thành quả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là đỉnh cao mới của sự phát triển công nghệ, có tác động đến toàn bộ đời sống con người cả về công việc, giải trí và kết nối thông tin. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại nhiều lợi ích lâu dài về hiệu quả và năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đối với giáo dục nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện để đổi mới tư duy và phương pháp đào tạo, học tập thông qua kết nối các thiết bị thông minh, các lớp học ảo, lớp học trực tuyến…

Tuy nhiên, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đem lại không ít thách thức, đặc biệt là với thị trường lao động và hệ thống giáo dục và đào tạo nghề của Lào. Điểm yếu của lao động ở Lào hiện nay, kể cả lao động đã qua đào tạo nghề là kỹ năng, ngoại ngữ và tác phong làm việc công nghiệp, kỷ luật lao động. Trong khi đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ làm giảm nhu cầu lao động ở các nhóm ngành thâm dụng lao động và tạo ra nhiều việc làm ở các ngành nghề đòi hỏi trình độ tư duy, sáng tạo cao như công nghệ thông tin, thiết kế, hóa học...

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra thị trường lao động 4.0, cùng với đó là hệ thống giáo dục - đào tạo, giáo dục và đào tạo nghề 4.0. Điều này đòi hỏi những kỹ năng mới trong lao động cần phải truyền tải và thực hiện trong hệ thống giáo dục và đào tạo nghề. Bên cạnh những kỹ năng chuyên môn, hệ thống giáo dục và đào tạo nghề cũng phải chú trọng đến kỹ năng số, kỹ năng ngoại ngữ, năng lực sáng tạo, kỹ năng khởi nghiệp…

Do đó, giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục và đào tạo nghề nói riêng ở Lào cần đưa ra những chiến lược và biện pháp cụ thể, đồng bộ nhằm hạn chế thách thức trong phát triển kỹ năng, giáo dục và đào tạo, đồng thời, tận dụng các cơ hội to lớn do Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Qua đó, góp phần nâng tầm kỹ năng lao động Lào, nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới.

Xem tất cả 217 trang.

Ngày đăng: 13/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí