Chất lượng NNL được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu:
- Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe của nguồn nhân lực
Sức khỏe của NNL là sự phát triển hài hòa của con người cả về thể chất và tinh thần. Sức khỏe thể chất là sự cường tráng, năng lực lao động chân tay. Sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, khả năng vận động của trí tuệ, khả năng biến tư duy thành hành động thực tiễn. Khả năng thích ứng đối phó với các biến động của môi trường xã hội. Hiến chương của tổ chức Y tế thế giới đã nêu: " Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần chứ không chỉ không có bệnh tật hay thương tật". Tình trạng sức khỏe của nguồn NNL được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu: tuổi thọ bình quân của dân số; chiều cao, cân nặng trung bình của người lao động; chỉ tiêu về y tế, bệnh tật.
- Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của người lao động
Trình độ văn hóa của NNL là trạng thái hiểu biết cao hay thấp của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ văn hóa là khả năng về học vấn để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản và tri thức chuyên môn- kỹ thuật. Chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hóa của NNL trong độ tuổi lao động bao gồm: chỉ tiêu học vấn chung ( số năm đi học bình quân của NNL trong độ tuổi lao động ); tỷ lệ lao động cấp trình độ văn hóa phổ thông (biết chữ, chưa tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp trung học cơ sở, tốt nghiệp trung học phổ thông).
- Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn- kỹ thuật của người lao động
Trình độ chuyên môn - kỹ thuật của NNL là sự hiểu biết, kiến thức và kỹ năng thực hành về một nghề nghiệp nhất định. Nguồn nhân lực có chuyên môn - kỹ thuật bao gồm những người lao động là công nhân kỹ thuật đã có bằng hoặc chứng chỉ nghề, những người tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, trên đại học được đào tạo ở các trường, lớp với các bậc học
và hình thức học khác nhau. Trình độ chuyên môn - kỹ thuật của NNL được đánh giá thông qua các chỉ tiêu: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo và chưa đào tạo; Cơ cấu lao động đã qua đào tạo theo các cấp trình độ: công nhân kỹ thuật và sơ cấp, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, trên đại học.
- Chỉ tiêu thể hiện thông qua chỉ số phát triển con người (HDI).
Chỉ số phát triển con người (HDI): Liên hợp quốc sử dụng chỉ số phát triển con người trên phương diện sức khỏe, tri thức và thu nhập làm thước đo chung để so sánh sự phát triển con người và nhân lực của các quốc gia. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới cũng thường dùng chỉ số HDI để đánh giá mức độ nhất định về phát triển nhân lực của quốc gia mình. Chỉ số HDI được xác định trên ba tiêu chí: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người; trình độ học vấn; tuổi thọ bình quân.
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương - 1
- Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương - 2
- Quá Trình Công Nghiệp Hoá , Hiện Đại Hoá Ở Hải Dương Đã Đặt Ra Những Yêu Cầu Đối Với Chất Lượng Nguồn Nhân Lực .
- Kinh Nghiệm Của Một Số Tỉnh Miền Trung Và Phía Nam Về Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực .
- Tình Hình Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Ở Hải Dương Trong Quá Trình Công Nghiệp Hoá , Hiện Đại Hoá Nền Kinh Tế.
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
- Chỉ tiêu thể hiện thông qua trình độ ngoại ngữ và trình độ tin học.
Trong thời đại ngày nay - thời đại của nền văn minh tin học, của nền kinh tế tri thức người ta còn xem xét năng lực, phẩm chất của NNL thông qua trình độ ngoại ngữ và trình độ tin học. Trình độ ngoại ngữ, tin học thể hiện cơ cấu lao động biết ngoại ngữ, tin học có chứng chỉ trình độ A hoặc không có chứng chỉ nhưng trình độ kiến thức và thực hành tương đương chứng chỉ A. Trong nền kinh tế thị trường mở cửa ra thế giới, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật và xu hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức thì trình độ tin học, ngoại ngữ là công cụ quan trọng để nâng cao năng suất lao động của NNL. Khả năng ngoại ngữ và tin học có thể giúp cho người lao động đáp ứng được yêu cầu của quá trình chuyển giao, áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ sản xuất, quản lý mới trong môi trường nền kinh tế toàn cầu hóa, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Chất lượng NNL là một chỉ tiêu tổng hợp về con người, chịu tác động tổng hòa của nhiều yếu tố. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, NNL chịu ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất: Trình độ phát triển của nền kinh tế tác động đến chất lượng nguồn nhân lực.
Trình độ của nền kinh tế tác động đến chất lượng NNL bởi vì đó là cơ sở để xác định tiền lương, thu nhập, cải thiện mức sống và nâng cao dân trí của các tầng lớp dân cư cũng như người lao động. Khi thu nhập được nâng cao các hộ gia đình mới cải thiện được chế độ dinh dưỡng, mới có điều kiện tài chính để chi trả cho các dịch vụ giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Do đó mà sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn - kỹ thuật, các mối quan hệ xã hội của dân cư và NNL được nâng cao. Suy cho đến cùng là NNL được cải thiện về mặt chất lượng.
Mặt khác, nền kinh tế phát triển ở trình độ cao có một cơ cấu kinh tế hợp lý và sử dụng phần lớn thiết bị, công nghệ hiện đại trong sản xuất. Chính vì vậy nó đòi hỏi NNL của nền kinh tế này phải là lao động qua đào tạo chuyên môn - kỹ thuật. Hệ thống giáo dục - đào tạo luôn phải hướng tới không ngừng nâng cao chất lượng NNL để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế.
Thứ hai: Phát triển giáo dục, đào tạo tác động đến chất lượng nguồn nhân lực.
Mức độ phát triển của giáo dục, đào tạo là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng NNL, vì nó không chỉ quyết định trình độ văn hoá, chuyên môn - kỹ thuật của NNL mà còn tác động đến sức khoẻ, tuổi thọ, của người dân thông qua các yếu tố thu nhập, nhận thức và xử lý thông tin KT - XH, thông tin khoa học…Như Các Mác: “…Từ chế độ công xưởng đã nảy nở ra cái mầm mống của nền giáo dục tương lai, nó sẽ kết hợp lao động sản xuất với giáo dục và thể dục đối với tất cả trẻ em trên một lứa
tuổi nào đấy, coi đó không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện”.
Tác động của phát triển giáo dục, đào tạo đối với chất lượng NNL thể
hiện:
Mức độ phát triển của giáo dục, đào tạo càng cao thì quy mô NNL
chuyên môn- kỹ thuật càng mở rộng bởi giáo dục, đào tạo là nguồn gốc cơ bản để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn- kỹ thuật của nền kinh tế. Hệ thống giáo dục, đào tạo phát triển ở các địa phương thì việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục của dân cư càng thuận tiện, càng mở ra khả năng nâng cao quy mô NNL qua đào tạo và đó cũng là một trong những giải pháp để cải thiện chất lượng NNL của các địa phương, vùng và quốc gia.
Mức độ phát triển giáo dục, đào tạo càng cao càng có khả năng nâng cao chất lượng NNL theo chiều sâu. Điều này thể hiện ở chỗ, một trong những tiêu chí phát triển giáo dục, đào tạo là nâng cao chất lượng đầu ra. Chất lượng đầu ra của giáo dục, đào tạo phải đáp ứng được yêu cầu của các ngành kinh tế và của xã hội. Đây cũng chính là yêu cầu bức xúc đang đặt ra với NNL ở nước ta hiện nay.
Đầu tư cho giáo dục, đào tạo sẽ đem lại những lợi ích to lớn, lâu dài cho cá nhân và sự phát triển KT - XH.
Đối với cá nhân: Lợi ích mà cá nhân nhận được sau quá trình đào tạo là với những kiến thức, kỹ năng, phẩm chất, thái độ lao động đúng đắn…cá nhân được tăng, cơ hội có việc làm, thu nhập cao hơn, thích nghi với những thay đổi nghề nghiệp…
Đối với phát triển KT - XH: Đó chính là toàn bộ những lợi ích KT - XH thu được thông qua giáo dục. Cụ thể: Giáo dục có tác động trực tiếp đến năng suất lao động của NNL. Thông qua giáo dục và đào tạo có thể cung ứng
những người lãnh đạo, quản lý KT - XH tài giỏi, nhà khoa học- kỹ thuật, khoa học kinh tế… để đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH. Giáo dục, đào tạo cung cấp trình độ văn hoá cơ bản là tiền đề để tiếp thu tri thức, tăng thêm sức mạnh cho con người, để tận dụng các cơ hội trong lao động sáng tạo, tạo ra thu nhập cao góp phần nâng cao mức sống vật chất và tinh thần, chống suy dinh dưỡng, cải thiện sức khoẻ của dân cư và NNL.
Giáo dục có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực cho NNL trong tiếp thu và vận dụng tri thức. Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, kinh tế tri thức ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Sức cạnh tranh sẽ xoay quanh tâm điểm là hàm lượng KH - CN, chất xám quyết định giá trị sản phẩm. Trong khi đó, giáo dục là diện mạo của đội ngũ nhân lực trình độ chuyên môn- kỹ thuật cao, là nền tảng để đảm bảo cho việc thực hiện sản phẩm có hàm lượng KH - CN cao. Báo cáo phát triển NNL của UNDP đã cảnh báo rằng: “ Không có nước công nghiệp hoá giàu có nào đạt tăng trưởng cao trước khi hoàn thành phổ cập giáo dục trung học”.
Phát triển giáo dục, đào tạo sẽ tạo ra “vốn nhân lực” để phát triển kinh tế. “Vốn nhân lực” là kiến thức tay nghề mà người lao động tiếp thu được thông qua quá trình giáo dục, đào tạo từ nhỏ cho đến khi trưởng thành cũng như trong quá trình lao động. Nó cũng giống như các loại vốn khác, nếu được sử dụng tốt sẽ làm gia tăng năng lực sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng năng suất và hiệu quả của quá trình lao động. Các thuyết tăng trưởng về kinh tế đều khẳng định mối quan hệ tương hỗ giữa nguồn vốn nhân lực và nguồn vốn vật chất, trữ lượng vốn nhân lực lớn sẽ làm gia tăng giá trị lợi tức của máy móc, thiết bị, nhà xưởng…(tài sản cố định nói chung) và tài sản lưu động. Đồng thời, trữ lượng vốn vật chất tăng là cơ sở để tạo nên cơ hội đầu tư vào giáo dục, đào tạo; không có nguồn vốn nhân lực thì vốn vật chất chỉ là vốn chết. Do đó, phát triển NNL là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược cạnh tranh,
trong đó đầu tư vào giáo dục, đào tạo lại có vai trò quyết định tạo ra NNL trình độ cao cho xã hội.
Thứ ba: Tốc độ tăng dân số ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Quy mô và tốc độ gia tăng dân số ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển NNL cả về số lượng và chất lượng.
Quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số nhanh, cao là một trong những nguyên nhân cản trở tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế và phát triển đào tạo NNL. Dân số tăng nhanh sẽ làm tăng số lượng lao động, tạo ra sức ép lớn về nhu cầu việc làm, thu nhập, làm chậm tốc độ tăng GDP/người, hạn chế phát triển giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và giải quyết các vấn đề xã hội khác. Theo tính toán của tổ chức Dân số Liên Hợp Quốc thì khi dân số tăng 1% muốn đảm bảo thu nhập và công ăn việc làm như trước phải gia tăng 3%GDP.
Đối với nước ta thì những năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn tốc độ gia tăng dân số. Bởi vậy nhà nước có điều kiện hơn để cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân, phát triển giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng NNL. Để nâng cao chất lượng NNL đồng thời giảm bớt những bất hợp lý trong quan hệ cung - cầu NNL, chính sách dân số là một trong những chính sách cần được quan tâm.
Thứ tư: Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tác động đến chất lượng nguồn nhân lực.
Dinh dưỡng là yếu tố cần thiết cho con người, gồm rất nhiều yếu tố từ lương thực, thực phẩm mà cơ thể cần hấp thụ để duy trì sức khoẻ tốt cho NNL. Các nhà kinh tế nước ngoài đã nêu ra rằng: “Chỉ số nghèo về tài chính là một thước đo cơ bản về khả năng của hộ gia đình để mua một lượng lương thực, thực phẩm vừa đủ và duy trì một tiêu chuẩn dinh dưỡng tối thiểu”. Thiếu dinh dưỡng dẫn đến thể lực ốm yếu, khả năng miễn dịch kém, dễ mắc
các bệnh truyền nhiễm, suy giảm nghiêm trọng khả năng làm việc và tác động tiêu cực đến chất lượng NNL
Đối với các nước nghèo thường lâm vào tình trạng luẩn quẩn: Đói nghèo -> suy dinh dưỡng -> ít cơ hội việc làm - năng suất lao động thấp -> đói nghèo. Như vậy tình trạng suy dinh dưỡng thường là vấn đề của người nghèo. Người nghèo tình trạng thiếu dinh dưỡng và nguy cơ bệnh tật là phổ biến là phổ biến. Nghèo đói và chất lượng NNL thấp luôn có mối quan hệ cùng chiều và có sự tác động qua lại lẫn nhau, do đó để nâng cao chất lượng NNL phải xoá đói giảm nghèo đồng thời kết hợp với các biện pháp khác.
Ngoài vấn đề dinh dưỡng, sự phát triển, tính hiệu quả của hệ thống y tế và khả năng tiếp cận của người dân với hệ thống này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của NNL. Chăm sóc y tế tác động đến chất lượng NNL thể hiện: Thông qua chăm sóc sức khoẻ sinh sản, chăm sóc sức khoẻ, tư vấn về dinh dưỡng, phòng bệnh tật cho các tầng lớp dân cư tạo cho NNL có thể lực, tinh thần khoẻ mạnh. Việc không ngừng nâng cao năng lực của mạng lưới y tế, áp dụng kịp thời những tiến bộ khoa học y tế vào dự phòng và chữa bệnh cho nhân dân sẽ có tác động đến nâng cao tuổi thọ, sức khoẻ dân cư và NNL. Có cơ chế chính sách y tế phù hợp sẽ tạo cơ hội cho các tầng lớp dân cư và người lao động có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế, tư vấn về dinh dưỡng và phòng bệnh. Điều đó sẽ có tác động đến chất lượng NNL ở phạm vi rộng lớn.
1.2. Những yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương.
1.2.1. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương trong những năm qua.
Cùng với các tỉnh thành khác trong cả nước, Hải Dương bước vào thời kì CNH, HĐH với nhiều thời cơ, thuận lợi đan xen thách thức và khó khăn. Song quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, thứ IX, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh những khoá gần đây, nắm bắt thời cơ vượt qua thách thức toàn Đảng, toàn dân đã vươn lên thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, tạo ra sự đột phá làm chuyển biến toàn diện trên các mặt của đời sống xã hội, đưa sự nghiệp CNH, HĐH tiến thêm từng bước mới.
Thực hiện CNH, HĐH Hải Dương đã nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng phát triển các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm các ngành sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ, từ 34,8% - 37,2% - 28% năm 2000 chuyển thành 27,5% - 43% - 29,5% năm 2005. Cơ cấu lao động trong khu vực nông, lâm, thuỷ sản giảm từ 82,4 % năm 2000 xuống còn 70% năm 2005; công nghiệp - xây dựng tăng từ 10% lên 17%; các ngành dịch vụ từ 7,6% lên 13%.
Thực hiện CNH, HĐH Hải Dương đã đưa ra những định hướng:
* Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, đạt chất lượng hiệu quả cao, gắn với xây dựng nông thôn mới.
Trong xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp Hải Dương xác định theo hướng tăng tỷ trọng các nông sản thực phẩm có hiệu quả kinh tế cao, khai thác lợi thế từng vùng và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếp tục tạo điều kiện, môi trường tốt, thực hiện chính sách hỗ trợ để chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và lao động đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, hình thành một số mô hình sản xuất công nghệ cao và phát triển mạnh công nghiệp chế biến. Tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế nông thôn.
* Phát triển công nghiệp nhanh và bền vững, nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Thực hiện vấn đề này, Hải Dương xác định cần duy trì tốc độ phát triển cao đi đôi với nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất, năng lực