tham gia vào quá trình phát triển KT- XH. Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác (vốn, đất đai, công nghệ…) ở chỗ nguồn lực con người với hoạt động lao động sáng tạo, tác động vào thế giới tự nhiên, biến đổi giới tự nhiên, là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Mặt khác, trong quá trình lao động làm nảy sinh các quan hệ sản xuất. Trong mọi hình thái KT- XH, nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của sản xuất. Đồng thời là mục đích của nền sản xuất xã hội.
Theo nghĩa hẹp (xét theo từng thời kì) đó là nguồn lực của một quốc gia, là bộ phận dân số trong độ tuổi qui định có khả năng tham gia lao động (ở nước ta được hiểu là bộ phận dân số từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ trừ những người tàn tật, mất sức lao động loại nặng và cả lao động trẻ em và lao động cao tuổi).
Nguồn nhân lực được nghiên cứu trong luận văn là tổng hợp những con người, chủ thể với những năng lực, phẩm chất nhất định đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình CNH, HĐH. “Nguồn nhân lực” hay còn gọi là “Nguồn lực con người”, “Nguồn tài nguyên người” đó là những chủ thể không tồn tại một cách biệt lập mà chúng được liên kết với nhau thành một chỉnh thể thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động. Tổng hợp những chủ thể này là tổng hợp sức mạnh của một tổng thể người chứ không phải sự tập hợp đơn giản số lượng người. Sức mạnh ấy là cái vốn có bên trong của mỗi con người và được nhân lên trong chỉnh thể thống nhất. Nguồn nhân lực cho CNH, HĐH còn được hiểu không chỉ là những chủ thể đang tham gia vào quá trình CNH, HĐH mà cả những chủ thể đã và sẽ tham gia vào quá trình này.
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển KT- XH trong thời đại ngày nay. Tuy có thể hiểu khái niệm này theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, nhưng nhìn chung, nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc độ
là số lượng và chất lượng của bộ phận dân cư tham gia vào hoạt động KT- XH, vào quá trình CNH, HĐH đất nước.
Số lượng NNL được xác định bởi các chỉ tiêu về qui mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực tại một thời điểm thường được xác định là bao nhiêu hay chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm trong tổng dân số. Các chỉ số về số lượng NNL của một quốc gia là dân số, tốc độ tăng dân số, tuổi thọ bình quân, cấu trúc dân số: Số dân ở độ tuổi lao động, số người ăn theo v.v. Số lượng NNL đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển KT- XH. Nếu số lượng NNL không tương xứng với sự phát triển (thiếu,hoặc thừa) thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình CNH, HĐH.
Chất lượng NNL được thể hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng sức khoẻ, trình độ kiến thức, tay nghề, tác phong nghề nghiệp, cơ cấu NNL về tuổi tác, giới tính, thiên hướng ngành nghề, phân bố theo khu vực lãnh thổ, khu vực thành thị - nông thôn. Trong nguồn nhân lực, chất lượng NNL đóng vai trò quyết định, nhất là giai đoạn hiện nay, khi chúng ta thực hiện quá trình CNH, HĐH đất nước, KH - CN và kỹ thuật phát triển mạnh mẽ thì NNL chất lượng cao có vai trò quyết định sự thành công của quá trình này.
1.1.1.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) của Đảng chỉ rò: ““Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [14, tr.65].
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương - 1
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Nguồn Nhân Lực .
- Quá Trình Công Nghiệp Hoá , Hiện Đại Hoá Ở Hải Dương Đã Đặt Ra Những Yêu Cầu Đối Với Chất Lượng Nguồn Nhân Lực .
- Kinh Nghiệm Của Một Số Tỉnh Miền Trung Và Phía Nam Về Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực .
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Từ nhận thức như vậy, chúng ta đã xác định những nội dung cơ bản của CNH, HĐH là:
+ Thực hiện quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Nói cách khác là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ cao cùng với sự phân bố NNL phù hợp với cơ cấu ngành nghề.
+ Thực hiện quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng kinh tế, giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp (nông, lâm ngư nghiệp) và tăng tỷ trọng kinh tế, tăng tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động, hướng vào thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực và lợi thế của đất nước.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật vừa là quá trình KT - XH. Do vậy nhìn theo chiều sâu của sự phát triển KT - XH đó là phát triển con người và nguồn lực con người là nội dung cốt lòi.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc dân, bao gồm mở rộng phân công lao động ở địa phương, vùng, toàn quốc và phân công lao động quốc tế.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải được thực hiện hướng vào phát triển các giá trị hiện đại, văn minh chung của nhân loại ngày nay, đảm bảo các điều kiện phát triển bền vững, hài hoà cả về thiên nhiên và con người.
Cho đến nay, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phương thức hữu hiệu làm thay đổi căn bản bộ mặt KT - XH của các nước. Việc thực hiện có kết quả quá trình CNH, HĐH trước hết sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về trình độ của lực lượng sản xuất, từ công cụ
lao động, phương tiện sản xuất đến yếu tố người lao động, thay vào đó là những công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, nhờ vậy năng lực sản xuất tăng lên, kinh tế phát triển. Mặt khác, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nâng cao mức sống dân cư, tạo điều kiện phát triển dân trí, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Tuy nhiên CNH, CNH mang lại hiệu quả phát triển KT - XH đến đâu còn phụ thuộc vào tính ưu việt trong mục tiêu CNH, HĐH của mỗi nước. Song dù thế nào cũng phải thừa nhận rằng: Công nghiệp hoá tạo ra nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật là năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, cơ cấu sản xuất đa dạng, việc làm nhiều và phong phú, thu nhập quốc dân chung và tính theo đầu người cao hơn nhiều so với một nền kinh tế chưa CNH, HĐH.
Đối với nước ta hiện nay, nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé. Để ra khỏi tình trạng nước nghèo chậm phát triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn, không có con đường nào khác ngoài tiến hành CNH, HĐH đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định: “Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [16, tr.80].
Mặt khác trong quá trình CNH, HĐH Đảng ta cũng đã khẳng định: “Kết hợp hài hoà giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, đặt con người vào vị trí trung tâm, phát triển nguồn nhân lực, nhằm khơi dậy và khai thác tiềm
năng của từng con người, để con người có thể tham gia tốt nhất vào xây dựng đất nước”. Như vậy, quá trình CNH, HĐH phụ thuộc chủ yếu vào nguồn lực con người, nó đòi hỏi rất cao ở chất lượng NNL, cụ thể là trình độ văn hoá, chuyên môn - kỹ thuật, sức khoẻ và các phẩm chất khác của NNL. Để thực hiện có kết quả CNH, HĐH với những mục tiêu và nội dung cơ bản nêu trên cần thiết phải có NNL tương xứng, đáp ứng nhu cầu cấp thiết trước mắt và đảm bảo cho sự phát triển bền vững, lâu dài. Nguồn nhân lực phải có chất lượng ở mọi trình độ từ công nhân, cán bộ kỹ thuật lành nghề đến kỹ sư thiết kế, chế tạo, các công trình sư, kiến trúc sư và đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Nguồn nhân lực này phải đủ về số lượng, cao về chất lượng, đồng bộ trong cơ cấu ngành, nghề và có tỷ lệ phù hợp với quan hệ cung- cầu của mỗi loại, ở mỗi vùng, miền và cả trên cả nước.
* Vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình tất yếu mà trong sự phát triển của mình mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều phải trải qua. Trong quá trình CNH, HĐH vai trò của NNL cùng với KH - CN ngày càng được đánh giá cao. Song trong đó NNL là một nhân tố giữ vai trò quyết định. Sự cạnh tranh của các nước có nền kinh tế phát triển đang diễn ra. ở các nước này, đòi hỏi gay gắt nhất vẫn là sự phát triển NNL. Sự thắng lợi sẽ thuộc về nước nào đào tạo, bồi dưỡng được NNL có trình độ trí tuệ cao để sáng tạo và chiếm lĩnh đỉnh cao của KH - CN.
Ở nước ta, sự nghiệp CNH được tiến hành từ những năm 1960 theo đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, công nghiệp hoá lúc đó chỉ hiểu giản đơn là “quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân”. Quan điểm giản đơn ấy dẫn đến hiệu quả của việc thực hiện CNH rất thấp trong khi chúng ta đầu tư khá lớn. Hạn chế hơn là tính
năng động sáng tạo của con người không được khơi dậy. Từ Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TƯ khoá VII , Đảng ta đã xác định: “Công nghiệp hoá không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá; kết hợp những bước tuần tự về công nghệ phát triển theo theo chiều rộng, tạo nên công ăn việc làm cho đội ngũ lao động đông đảo hiện nay với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu phát triển chiều sâu tạo nên những mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học công nghệ thế giới”.
Công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay được thực hiện trong điều kiện chúng ta phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước XHCN. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế. Quá trình CNH, HĐH chỉ có thể thành công khi và chỉ khi dựa trên tổng thể các nguồn lực mà đặc biệt là nguồn lực con người hay NNL. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [16, tr.21].
Để thấy rò vai trò quyết định của NNL trong quá trình CNH, HĐH cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác qua đó thấy được sự chi phối của nó đến sự thành, bại của CNH, HĐH. Đồng thời phải đặt CNH trong bối cảnh hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và đã trở thành yêu cầu khách quan, xu thế phổ biến của nhân loại, khi CNH gắn với HĐH mà cốt lòi là
HĐH lực lượng sản xuất. Mặt khác, cũng phải đặt CNH, HĐH trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Xem xét NNL dưới góc độ trong quan hệ với các nguồn lực khác, vai trò quyết định của NNL thể hiện ở chỗ: Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết phát huy vai trò và gắn kết các nguồn lực khác lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình CNH, HĐH. Các nguồn lực khác là khách thể chịu sự chi phối và đều phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con người. Các nguồn lực khác là hữu hạn nhưng nguồn lực con người - nguồn nhân lực với những tiềm năng về trí tuệ là vô tận. Tính vô tận của tiềm năng trí tuệ là một trong những đặc điểm quan trọng của NNL, nhờ đó mà NNL có vai trò to lớn so với các nguồn lực khác. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật từ giữa thế kỷ XX đến nay là kết quả của sự phát triển trí tuệ con người. Những tiến bộ KH - CN do trí tuệ con người tạo ra đang làm thay đổi nền sản xuất xã hội. Trí tuệ trở thành yếu tố khởi động cho guồng máy sản xuất hoạt động theo dạng thức mới. Đó là nền sản xuất tự động với sự tăng lên nhanh chóng hàm lượng lao động trí tuệ, sử dụng các thiết bị máy móc hiện đại, vận hành đơn giản, nhưng hiệu suất lại tăng lên gấp bội, tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm hao phí và hạn chế ô nhiễm môi trường.
Đối với quá trình CNH, HĐH, trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, NNL là chủ thể trực tiếp, hiện thực, quyết định toàn bộ quá trình này. Điều đó được thể hiện từ khâu xác định mục tiêu, nội dung, cách thức đến việc tổ chức khai thác các nguồn lực khác để thực hiện CNH, HĐH. Bản thân các nguồn lực khác không thể tự nó tham gia vào quá trình CNH, HĐH.
Chúng chỉ trở thành nguồn lực thực sự của quá trình này khi được kết hợp với sức lực và trí tuệ của NNL. Trong thực tế ở nhiều nước và ở nước ta cho thấy, sự thành công của CNH, HĐH phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Quá trình CNH, HĐH sẽ không thể đạt kết quả tốt, thậm chí thất bại, nếu không lựa chọn được mô hình đúng, bước đi thích hợp và các giải pháp hữu hiệu, phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế, dù có đủ các nguồn lực khác.
1.1.2. Chất lượng nguồn nhân lực và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.1.2.1. Chất lượng nguồn nhân lực và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng
NNL.
Chất lượng NNL là khái niệm tổng hợp thể hiện ở các mặt sau: sức
khoẻ; trình độ văn hoá; trình độ chuyên môn- kỹ thuật; tính năng động xã hội; phẩm chất đạo đức, tác phong, thái độ đối với công việc và môi trường làm việc, hiệu quả hoạt động lao động của NNL; thu nhập, mức sống và mức độ thoả mãn nhu cầu cá nhân của người lao động.
Chất lượng NNL là trạng thái nhất định của NNL, là tố chất, bản chất bên trong của NNL, nó luôn có sự vận động và phản ánh trình độ phát triển KT- XH cũng như mức sống, dân trí của dân cư. Trong bối cảnh những thành tựu đạt được không ngừng của khoa học, công nghệ và toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ có tác động thúc đẩy phát triển nhanh quá trình KT- XH thì chất lượng NNL luôn có sự vận động, phát triển đi lên theo hướng tích cực và cũng có nhiều yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển NNL. Sự vận động tích cực của NNL ở trình độ ngày càng cao hơn mang tính quy luật, là cơ sở để biến xã hội và không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần và hoàn thiện con người lao động.