Các Tiêu Chí Đánh Giá Chất Lượng Công Chức Quản Lý Văn Hóa


* Thứ hai, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp (trí lực):

Trí lực của công chức là phạm trù để chỉ sự hiểu biết, sự nhận thức, tiếp thu, vận dụng kiến thức chuyên môn, kỹ thuật vào thực hiện công việc; đó cũng là năng lực tư duy, sức suy nghĩ, sáng tạo, tài năng, khả năng, năng khiếu của mỗi người trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

Trí lực của công chức QLVH được thể hiện thông qua trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa và QLVH; trình độ, kỹ năng sử dụng ngoại ngữ, tin học trong công việc; kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm công tác.... Mặt khác, trí lực còn được biểu hiện ở óc sáng tạo, tính linh hoạt, nhạy bén trong phát hiện thông tin mới và khả năng thích ứng nhanh để học tập, áp dụng vào thực hiện nhiệm vụ được giao.

Trí lực được hình thành, duy trì và phát triển phụ thuộc vào trình độ phát triển của hệ thống giáo dục và đào tạo của quốc gia. Ngoài ra, trí lực công chức QLVH còn phụ thuộc vào năng lực bẩm sinh, sự nỗ lực của mỗi công chức và kinh nghiệm thực tiễn, thâm niên công tác tại ngành văn hóa mà mỗi công chức đã trải qua và được tích lũy lại.

Trí lực là nội dung và là yếu tố đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng của công chức QLVH. Bởi vì, thực hiện nhiệm vụ QLNN về văn hóa không phải là lao động giản đơn, chỉ cần thể lực là có thể làm được, mà đây là lao động phức tạp, lao động quản lý, lao động trí tuệ, nên phải trải qua quá trình đào tạo lâu dài, khó khăn, phức tạp mới có thể làm được.

* Thứ ba, phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp (tâm lực):

Tâm lực là phạm trù chỉ về phẩm chất đạo đức, tư thế, tác phong làm việc của công chức QLVH. Người công chức có tâm lực là người công chức luôn toàn tâm, toàn ý, phát huy mọi năng lực sáng tạo để cống hiến cho công việc tập thể, cho xã hội và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Tâm lực của công chức QLVH được thể hiện thông qua phẩm chất đạo đức, tinh thần vô tư, trong sáng, thoải mái và luôn tập trung cho công việc; có lòng yêu nghề, có tình đoàn kết tập thể cao, không vụ lợi, không ích kỷ cá nhân; luôn có thái độ chống các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; thể hiện ở ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình đúng đắn nhằm xây dựng khối đoàn kết trong đơn vị, có tác phong làm việc chuyên nghiệp, linh hoạt, nhạy bén, khoa học, văn


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.

minh, hiện đại và đạt hiệu quả cao.

Tâm lực của đội ngũ công chức QLVH phụ thuộc chủ yếu vào quá trình học tập, rèn luyện, quá trình hoạt động thực tiễn và quá trình nhận thức của mỗi công chức. Đồng thời, tâm lực của công chức QLVH cũng phụ thuộc rất lớn vào sự giáo dục, đào tạo, tuyên truyền, giác ngộ, tổng kết, đánh giá, năng lực quản lý của lãnh đạo cơ quan, đơn vị quản lý văn hóa các cấp.

Chất lượng công chức quản lý văn hóa của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - 8

2.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng công chức quản lý văn hóa

2.2.2.1. Nhóm tiêu chí đánh giá về sức khỏe, thể chất (thể lực)

Sức khỏe, thể chất của công chức QLVH được thể hiện ở sức cơ bắp bền bỉ, dẻo dai trong thực hiện nhiệm vụ. Sức khỏe là một tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng của công chức QLVH. Vì sức khỏe là cơ sở, nền tảng quan trọng cho mọi hoạt động của công chức, không có sức khỏe thì không có các hoạt động của con người. Sức khỏe được biểu hiện ở trạng thái thoải mái cả về thể chất, lẫn tinh thần và xã hội được kết hợp hài hoà với nhau trong từng công chức. Hiến chương của Tổ chức y tế thế giới đã nêu: Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thỏa mái về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không chỉ là một bệnh tật hay thương tật.

Sức khỏe của công chức QLVH gồm sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần.

Sức khỏe thể chất thể hiện ở sự cường tráng, năng lực hoạt động của cơ bắp; sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hoạt động thực tiễn. Sức khỏe của công chức QLVH được phản ánh bằng hệ thống các chỉ tiêu cơ bản như: trạng thái sức khỏe (Bộ Y tế phân thành ba loại: loại A - tốt, loại B - trung bình, loại C - yếu); tình trạng bệnh tật (công chức không hoặc càng ít bệnh tật thì sức khỏe càng đảm bảo); Sức khỏe, thể chất của công chức chịu ảnh hưởng của cơ sở vật chất và điều kiện bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của đội ngũ công chức.

Sức khỏe, thể chất của công chức QLVH phần nào được đánh giá qua tiêu chí định hướng là tỷ lệ phân loại sức khỏe của đội ngũ công chức QLVH, theo công thức sau:

Số công chức loại X

Tỷ lệ (%) sức khỏe loại: X = x 100 Tổng số công chức

Trong đó: X là loại sức khỏe (A, B, C)


Sức khỏe tinh thần của công chức QLVH, cụ thể:

- Sống vui vẻ, tinh thần thanh thản, lương tâm trong sáng là sự khởi đầu để có được một sức khoẻ tinh thần tốt. Mỗi công chức QLVH không phải bận tâm suy nghĩ vào những điều mình đã hành động lỡ lầm, có thể không tốt với mọi người, không phải lo đối phó với các thủ đoạn khác nhau để tồn tại, do đó, thể chất cũng được phát triển thuận lợi.

- Có khả năng thích ứng tốt, thông minh và đáp ứng có hiệu quả trong các điều kiện môi trường, sức chịu đựng cũng là một đòi hỏi quan trọng để có sức khỏe tinh thần tốt. Công chức QLVH có sức khỏe tinh thần tốt cũng là người chứng tỏ khả năng làm việc tốt, khi có năng lực làm việc tốt, công chức QLVH tự phấn đấu vươn lên chứng minh về bản thân và đấy cũng chính là nguồn bồi bổ tốt cho thể chất và tinh thần của công chức QLVH.

- Có các kỹ năng sống thích hợp mà công chức QLVH cảm thấy tự tin hơn trong môi trường công sở, cảm thấy mình thực sự cần thiết cho nhân dân, cho đồng nghiệp, nhờ đó thể chất và tinh thần được củng cố. Các kỹ năng sống thích hợp có nhiều, nhưng trước tiên phải kể đến, đó là: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, kỹ năng hành động theo nhóm, kỹ năng cùng chung sống v.v…

Thể lực của công chức QLVH được hình thành, duy trì và phát triển bởi chế độ dinh dưỡng, chế độ chăm sóc sức khỏe. Vì vậy, thể lực của công chức QLVH phụ thuộc vào trình độ phát triển của ngành, sự phân phối thu nhập, chế độ chính sách …

2.2.2.2. Nhóm tiêu chí đánh giá về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ (trí lực) Một là, tiêu chí về trình độ học vấn:

Trình độ học vấn của công chức QLVH là mức độ tri thức của công chức đạt được qua quá trình học tập trong hệ thống giáo dục quốc gia, như: trình độ tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học, trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học...

Trình độ học vấn công chức QLVH được đánh giá bằng tỷ lệ tính theo phần trăm (%) giữa số công chức có trình độ học thức nhất định và tổng số công chức:

Số công chức trình độ X

Trình độ học vấn (%) X = x 100 Tổng số công chức

Trong đó: X là trình độ học vấn (tốt nghiệp phổ thông trung học)

Hai là, tiêu chí về trình độ chuyên môn nghiệp vụ:


Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của công chức QLVH là trình độ chuyên môn đã được đào tạo qua hệ thống giáo dục chuyên nghiệp; là sự hiểu biết và khả năng thực hiện trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định.

Trình độ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức QLVH một mặt được thể hiện qua hệ thống văn bằng, chứng chỉ, bao gồm các trình độ: sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học (thạc sĩ, tiến sĩ); trình độ hoàn thành công việc, nhiệm vụ được giao.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ được tính bằng tỷ lệ tính theo phần trăm (%) giữa số công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định và tổng số công chức:

Số công chức trình độ X

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ (%) X = x 100 Tổng số công chức

Trong đó: X là trình độ chuyên môn nghiệp vụ (Sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học, trên đại học).

Mặt khác, trình độ còn được thể hiện qua ngạch công chức, bao gồm: Chuyên viên, chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp.

Trình độ ngạch công chức QLVH được tính bằng bằng tỷ lệ tính theo phần trăm (%) giữa số công chức có ngạch bậc đó và tổng số công chức:

Số công chức trình độ X

Trình độ ngạch công chức (%) X = x 100 Tổng số công chức

Trong đó: X là trình độ ngạch công chức (chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp).

Vấn đề cơ bản là, trình độ chuyên môn đào tạo của công chức phải phù hợp với công việc, nhiệm vụ được giao. Ngoài ra còn những trình độ chuyên môn bổ trợ mà hầu như lĩnh vực chuyên môn hẹp nào cũng cần, như: trình độ ngoại ngữ, tin học...

Số công chức trình độ X

- Trình độ ngoại ngữ (%) X = x 100 Tổng số công chức

Trong đó: X là trình độ ngoại ngữ (chứng chỉ, trung cấp, cao đẳng, đại học).

Số công chức trình độ X

- Trình độ tin học (%) X = x 100 Tổng số công chức


Trong đó: X là trình độ tin học (chứng chỉ, trung cấp, cao đẳng, đại học).

Ba là, tiêu chí về kỹ năng nghề nghiệp:

Kỹ năng nghề nghiệp là khả năng, năng lực vận dụng những kiến thức đã tiếp thu, nhận thức được vào hoạt động thực tiễn trong công việc. Kỹ năng nghề nghiệp càng cao thì hiệu quả hoàn thành công việc của công chức càng tốt. Vì vậy, kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chất lượng của công chức QLVH. Kỹ năng nghề nghiệp là kết quả tổng hợp của quá trình đào tạo, rèn luyện, tư duy, tích lũy kinh nghiệm của công chức. Tuy nhiên, có những kỹ năng cần thiết cho mọi công chức và có những kỹ năng không thể thiếu đối với một nhóm công chức nhất định phụ thuộc vào tính chất công việc mà họ đảm nhận. Việc phân chia kỹ năng nghề nghiệp thành các nhóm là cơ sở để xác định nội dung bồi dưỡng kỹ năng cho các nhóm công chức khác nhau.

Kỹ năng nghề nghiệp của công chức QLVH khái quát lại có bốn nhóm cơ bản:

- Nhóm kỹ năng tổng hợp: liên quan đến thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, tổng hợp, đề xuất, quyết định, ban hành, kiểm tra các quyết định, chính sách...

- Nhóm kỹ năng quan hệ giao tiếp: liên quan đến khả năng giao tiếp, ứng xử, làm việc nhóm, lắng nghe, thuyết trình...

- Nhóm kỹ năng tác nghiệp: kỹ năng sử dụng các phương pháp, phương tiện, công cụ vào thực hiện những công việc nhất định.

- Nhóm kỹ năng có chuyên môn nghiệp vụ: phụ thuộc yếu tố năng khiếu đối với các lĩnh vực văn hóa đặc thù, như: nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm...

Các kỹ năng nêu trên đều chịu ảnh hưởng quan trọng của trình độ chuyên môn, khả năng cá nhân và kinh nghiệm công tác của công chức QLVH trong quá trình thi hành công vụ. Bởi vậy, đây là nội dung phức tạp trong quá trình đánh giá công chức, dễ gây nhầm lẫn với trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Vì vậy, khi đánh giá theo tiêu chí này cần xác định các kỹ năng tốt phục vụ cho hoạt động; các kỹ năng chưa tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu; các kỹ năng cần thiết mà người công chức chưa có; các kỹ năng không cần thiết mà người công chức có.

Bốn là, tiêu chí về tính chuyên nghiệp:

Tính chuyên nghiệp của một công chức là sự thành thạo, thành thục trong thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tính chuyên nghiệp luôn gắn với một công việc nhất định và mang tính đặc thù của nghề đó. Phân công lao động xã hội càng sâu


sắc, sự chuyên môn hóa càng cao, thì công chức càng có điều kiện thể hiện và cần phải có tính chuyên nghiệp càng cao. Đối với một công chức, tính chuyên nghiệp được hiểu như sau:

Thứ nhất, phải tinh thông nghiệp vụ chính phù hợp với chức danh được giao và một số nghiệp vụ hữu quan.

Thứ hai, phải có các kỹ năng thuần thục để thực thi các nghiệp vụ đó. Với từng chức danh, công chức phải nắm vững các kỹ năng (kỹ năng làm việc với con người và kỹ năng lý luận tương ứng), kỹ thuật.

Thứ ba, phải hiểu rõ và biết vận dụng những vấn đề cơ bản của tâm lý học trong quản lý nhà nước.

Thứ tư, phải thấu hiểu và thực thi đúng quy chế công vụ của công chức nhà nước, đặc biệt là làm đúng thẩm quyền, đúng quy trình, đúng thủ tục trong QLNN.

Mục đích của tính chuyên nghiệp trong thực thi công vụ là nhằm tạo ra sự hoàn chỉnh, chất lượng, hiệu quả và tin cậy, để đạt được những điều đó thì các chi tiết dù là nhỏ nhất cũng đều phải được thiết lập đồng bộ, nhất quán, hợp lý.

Chuyên nghiệp thể hiện không chỉ ở năng lực làm việc tốt, chuẩn mực mà còn ở các thủ tục, các quy trình công việc cần được quy chuẩn hóa để ai cũng biết mà thực hiện và kiểm tra việc thực hiện. Tính chuyên nghiệp đòi hỏi công chức QLVH phải được đào tạo đúng chuyên ngành, có trình độ kiến thức và kỹ năng thực thi công vụ, có ý thức, tính kỷ luật và sức khỏe tốt để thực thi công vụ đạt hiệu quả cao. Công chức QLVH thực thi công vụ chuyên nghiệp là đảm bảo thực hiện các tiêu chuẩn nghề nghiệp từ quy trình thực hiện công vụ, quy chế an toàn đến các tiêu chuẩn về tác phong, phong cách làm việc.

Ngoài ra, tính chuyên nghiệp của công chức QLVH thể hiện ở sự thành thạo, thành thục trong thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ gắn với đặc thù của hoạt động QLNN về văn hóa, đảm bảo thực thi công việc với hiệu quả cao nhất. Công chức QLVH càng có tính chuyên nghiệp, thể hiện chất lượng của đội ngũ công chức QLVH càng cao.

2.2.2.3. Nhóm tiêu chí đánh giá về phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp (tâm lực)

Nói đến tâm lực ở đây chính là nói đến phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp của công chức QLVH.

Nhóm tiêu chí đánh giá về tâm lực của đội ngũ công chức QLVH thể hiện:


Thứ nhất, công chức có phẩm chất đạo đức là người công chức có tinh thần yêu nước, có tinh thần quốc tế trong sáng; toàn tâm, toàn ý phục vụ đất nước, phục vụ tập thể và xã hội; là người luôn theo tinh thần: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Phẩm chất đạo đức, lối sống của công chức QLVH quan hệ mật thiết với phẩm chất chính trị. Phẩm chất chính trị chi phối, quy định phẩm chất đạo đức; phẩm chất đạo đức tác động tới sự phát triển phẩm chất chính trị. Quan hệ biện chứng giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức của công chức QLVH tạo nên phẩm chất đạo đức cách mạng của một công chức QLNN nói chung.

Thứ hai, nhận thức chính trị của công chức QLVH. Đó là sự hiểu biết về đường lối, quan điểm chính trị, về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, sự hiểu biết và tin tưởng vào mục đích, lý tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vai trò, nhiệm vụ của công chức QLVH. Đồng thời, đó là những biểu hiện, cử chỉ, lời nói, việc làm của công chức QLVH xuất phát từ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm trước những vấn đề chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng, trước việc thực hiện quy định pháp luật. Nhận thức chính trị của công chức QLVH thể hiện qua thái độ chính trị có kiên quyết, dứt khoát hay nửa vời, chập chừng, do dự; nghiêm túc hay không nghiêm túc… có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của công chức QLVH.

Thứ ba, phong cách làm việc của công chức QLVH, là cách thức làm việc ổn định, mang sắc thái của mỗi cá nhân. Phong cách làm việc của công chức QLVH phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, khí chất cá nhân, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, điều kiện làm việc, sinh hoạt, sự giáo dục, rèn luyện… của công chức QLVH. Phong cách làm việc của công chức QLVH có ảnh hưởng lớn tới việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác. Phong cách làm việc gồm nhiều nội dung rất phong phú, nhưng chủ yếu là: Tác phong dân chủ - tập thể; tác phong khoa học; tác phong quần chúng.

Thứ tư, mối quan hệ của công chức QLVH với môi trường, điều kiện công tác cụ thể (với đường lối, nhiệm vụ chính trị, tổ chức và cơ chế, chính sách). Đây là những dấu hiệu đặc biệt quan trọng để nhận biết chất lượng công chức QLVH hiện nay. Vì công chức luôn sống và hoạt động trong hàng loạt mối quan hệ; mỗi công chức vừa là chủ thể, vừa là đối tượng tác động của các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội.

2.2.2.4. Nhóm tiêu chí đánh giá kết quả công việc:

Để có thể đánh giá được hiệu suất, kết quả cũng như sự tham gia của công chức QLVH vào hoạt động của cơ quan, thì các nhiệm vụ giao thực thi phải được quy định rõ, với các tiêu chí đánh giá cụ thể, sát thực, từ đó có những chính sách đúng đắn về


sắp xếp tổ chức, đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Đây là tiêu chí mang tính tổng hợp nhất và là kết quả sự kết hợp tổng hòa của cả ba yếu tố cấu thành của chất lượng công chức QLVH. Tiêu chí này chính là sản phẩm đầu ra của công chức QLVH.

Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công việc của đội ngũ công chức của QLVH, bao gồm:

- Thời gian thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ được giao; số lượng và chất lượng tham mưu xây dựng, soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về QLVH.

- Số lượng và chất lượng tham mưu xây dựng, soạn thảo các văn bản ký kết trong hợp tác quốc tế về văn hóa, như: các Hiệp định hợp tác quốc tế, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế ...

- Tổng kết, đánh giá thực tiễn về thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về QLVH; phát hiện những bất cập, hạn chế và nội dung không còn hợp lý trong các văn bản về QLVH để có sự sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế kịp thời và có hiệu quả.

- Tổ chức kiểm tra, theo dõi tình hình thực thi, thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các thủ tục hành chính và công tác bồi thường của Nhà nước về các lĩnh vực thuộc chức năng QLNN về văn hóa.

- Đánh giá sự phát triển của các hoạt động văn hóa trong từng thời kỳ; tham mưu để khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích suất sắc trong hoạt động văn hóa, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm để trục lợi.

2.2.2.5. Nhóm tiêu chí tố chất và uy tín của người lãnh đạo:

Nếu là người lãnh đạo, tố chất của công chức QLVH được thể hiện ở sự tin tưởng vào năng lực của bản thân mình; sự khát vọng hoàn thành công việc; tính chủ động, tự tin trong giải quyết công việc; có lập trường quan điểm kiên định, kiên quyết, dứt khoát; khả năng phân tích, suy xét, phán đoán đúng đắn, khoa học; khả năng tổ chức hợp lý, khoa học; có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, dám chịu trách nhiệm; có nền tảng giáo dục, có trình độ học vấn, có khả năng nhận thức, khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh, có khả năng chịu đựng khó khăn, chịu áp lực công việc…

Uy tín công chức lãnh đạo, quản lý trong QLVH là sự phản ánh mối quan hệ thực chất giữa người lãnh đạo quản lý với đội ngũ công chức không nắm chức vụ lãnh đạo trong hệ thống QLNN về văn hóa.

Xem tất cả 197 trang.

Ngày đăng: 02/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí