chiến lược, chính sách QLNN về văn hóa, nên ngoài những đặc điểm chung trên đây, đội ngũ công chức QLVH còn có những đặc điểm riêng sau:
Một là, công chức QLVH là lực lượng tham mưu xây dựng để Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa, vì thế đòi hỏi công chức QLVH có kiến thức về văn hóa sâu rộng, vừa có kỹ năng chuyên sâu về lập pháp và lập qui.
Công chức QLVH là những người có vị trí trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, có chức năng thực thi pháp luật và thi hành công vụ nhằm phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội. Công chức QLVH là chủ thể thực sự tiến hành các công vụ cụ thể và là yếu tố đảm bảo cho nền công vụ hoạt động, vận hành có hiệu lực, hiệu quả.
Như đã phân tích trong luận án, QLNN về văn hóa được thực hiện thông qua các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính sách về văn hóa, tức là các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về QLVH bao gồm:
Các Luật về văn hóa; các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị của Ban Bí thư; các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phát triển nền văn hóa; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển văn hóa; các văn bản hướng dẫn thực hiện luật pháp, chính sách phát triển văn hóa, như: các Thông tư của Bộ trưởng, các Thông tư liên tịch giữa Bộ có chức năng quản lý văn hóa với các Bộ, Ban, Ngành khác về thực hiện phát triển nền văn hóa nước nhà.
Đây chính là thể hiện sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN trong lĩnh vực văn hóa. Tuy nhiên các văn bản quy phạm pháp luật đó không tự nhiên sinh ra, mà phải có một đội ngũ tham mưu, xây dựng, soạn thảo. Đội ngũ đó không phải ai khác, chính là các công chức QLVH. Do vậy, công chức QLVH phải am hiểu và tinh thông pháp luật, thực hiện đúng pháp luật; nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, phải am hiểu sâu sắc chuyên môn về lĩnh vực văn hóa.
Hai là, công chức QLVH có năng lực tổng kết, đánh giá thực tiễn, phát hiện những bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa để tham mưu xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế.
Các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa (còn có thể được gọi là các cơ chế, chính sách về phát triển văn hóa) được ban hành nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn về văn hóa nảy sinh trong những thời kỳ nhất định, ổn định và phát triển nền văn hóa theo đúng mục tiêu đã định. Cơ chế, chính sách phát triển văn hóa chỉ có tác dụng, chỉ đi vào cuộc sống, được đông đảo quần chúng nhân dân đón nhận, thực hiện khi các cơ chế, chính sách đó phù hợp với thực tiễn khách quan.
Có thể bạn quan tâm!
- Về Công Chức Và Chất Lượng Công Chức Quản Lý Văn Hóa
- Khung Phân Tích Nâng Cao Chất Lượng Công Chức Qlvh
- Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Và Hội Nhập Quốc Tế
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Chất Lượng Công Chức Quản Lý Văn Hóa
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Công Chức Quản Lý Văn Hóa
- Kinh Nghiệm Của Một Số Nước Đang Phát Triển Ở Châu Á
Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.
Tuy nhiên, thực tiễn đời sống về kinh tế, văn hóa, xã hội không ngừng vận động và phát triển. Vì vậy, một chính sách có thể phù hợp, được đón nhận và có tác động thúc đẩy phát triển nền văn hóa trong thời kỳ này, nhưng sau một thời gian, cơ chế, chính sách đó lại trở thành lỗi thời, bất cập, thậm trí trở thành kìm hãm, đi ngược lại xu hướng phát triển tốt đẹp của nền văn hóa.
Để thúc đẩy nền văn hóa phát triển đúng mục tiêu, vấn đề đặt ra là phải phát hiện kịp thời những bất cập của các cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đúng lúc, đúng chỗ, để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế. Công việc, nhiệm vụ đó không ai khác chính là công chức QLVH. Do đó đòi hỏi công chức QLNN về văn hóa phải có kiến thức chuyên sâu về một hoặc một số lĩnh vực văn hóa, đủ bản lĩnh để phát hiện những nhân tố mới xuất hiện, cũng như chỉ ra kịp thời các hạn chế bất cập từ thực tiễn đời sống văn hóa.
Ba là, công chức QLNN về văn hóa phải là những người có trình độ hiểu biết sâu về công pháp, tư pháp quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời có khả năng dự báo và hoạch định chiến lược đối ngoại về văn hóa
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đời sống kinh tế, xã hội, nền văn hóa mỗi quốc gia tất yếu phải hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn hóa thế giới. Để hội nhập văn hóa thế giới phải thông qua ký kết các văn bản vừa đảm bảo thúc đẩy phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa tiếp thụ những tinh hoa văn hóa của nhân loại thông qua các văn bản hợp tác trong hội nhập văn hóa quốc tế, như: các hiệp định, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, hợp tác quốc tế,... Lực lượng tham mưu, xây dựng, soạn thảo các văn bản đó chính là công chức QLVH.
Cũng như các cơ chế, chính sách phát triển văn hóa trong nước, các văn bản về hợp tác văn hóa quốc tế cũng không ngừng được phát hiện kịp thời những bất cập và cần thiết được trao đổi, sửa đổi, bổ sung, thay đổi kịp thời, do môi trường chính trị, kinh tế, xã hội quốc tế không ngừng thay đổi. Đó cũng chính là vai trò tham mưu của công chức QLVH.
Bốn là, công chức QLVH vừa am hiểu sâu sắc bản sắc văn hóa dân tộc vừa có khả năng tiếp cận với các trào lưu văn hóa tiến bộ của thế giới.
Đối với một số lĩnh vực văn hóa như nghệ thuật biểu diễn đòi hỏi công chức cũng phải có tố chất, nhạy cảm về nghệ thuật. Đây là những năng khiếu bẩm sinh không phải ai cũng có được; không có năng khiếu thì dù có được đào tạo cũng không thể trở thành những ca sĩ, diễn viên múa, xiếc, tuồng, chèo... và công chức QLVH lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn cũng phải xuất phát từ những viên chức nghề nghiệp mới có
thể thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý chuyên ngành.
Phương hướng cơ bản phát triển nền văn hóa Việt Nam trong điều kiện KTTT và HNQT là kết hợp hài hòa giữa việc kế thừa những giá trị văn hóa dân tộc với việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Mà đội ngũ công chức QLVH chính là đội ngũ tham mưu, đề xuất, soạn thảo, xây dựng những văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế, chính sách, phương hướng phát triển văn hóa của đất nước vừa phối hợp với nước phát triển của KTTN và trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng. Do vậy, đòi hỏi công chức QLVH phải có sự am hiểu sâu sắc về những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, vừa phải am hiểu những giá trị văn hóa hiện đại của nhân loại, nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ về văn hóa và QLVH, tức là phải có tính chuyên nghiệp về văn hóa, làm cơ sở để tham mưu, đề xuất những cơ chế, chính sách hội nhập phù hợp, làm giàu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam. Nếu không thì sự đề xuất, tham mưu, xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật về văn hóa và QLVH sẽ dễ bị chệch hướng và khó đi vào cuộc sống.
2.1.3.3. Vai trò của công chức quản lý văn hóa
Thứ nhất, công chức QLVH là lực lượng chủ yếu chuyển các chủ trương, đường lối phát triển văn hóa của Đảng thành luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển văn hóa của Nhà nước.
Một trong những phương thức cơ bản xây dựng, phát triển nền văn hóa mới XHCN là không ngừng tăng cường lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước XHCN đối với hoạt động văn hóa. Đây là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới XHCN.
Đảng lãnh đạo tức là Đảng định ra chủ trương, đường lối phát triển văn hóa; còn Nhà nước quản lý tức là Nhà nước tổ chức thực hiện quản lý văn hóa thông qua các công cụ như: chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, pháp luật, chính sách phát triển văn hóa. Các công cụ QLNN đó chính do đội ngũ công chức QLVH tham mưu, xây dựng.
Đội ngũ công chức QLVH là lực lượng chủ đạo trong công tác nghiên cứu về văn hóa, cung cấp các luận cứ khoa học giúp lãnh đạo Bộ, tham mưu cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các quyết sách đúng đắn trong xây dựng, phát triển văn hóa.
Thứ hai, công chức QLVH là lực lượng triển khai, hướng dẫn việc thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước về phát triển văn hóa.
Công chức QLVH là người đem chính sách pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực
văn hóa giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời triển khai, bổ sung cho đúng đắn và phù hợp với thực tiễn. Họ được nhân dân coi là đại diện của Đảng và Nhà nước, do đó công chức QLVH phải là những người vững chuyên môn, thấu hiểu chủ trương, của Đảng và chính sách Nhà nước về văn hóa, là người có đạo đức cách mạng, có tinh thần phục vụ nhân dân, đồng thời là tấm gương cho quần chúng trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về văn hóa trong mọi mặt của đời sống xã hội.
Công chức QLVH có trách nhiệm dự báo, sáng tạo, dẫn dắt và hướng dẫn cộng đồng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hóa, làm cho nhân dân thực sự trở thành chủ thể sáng tạo văn hóa vừa là người hưởng thụ văn hóa (Đặng Phương Nga, 2016, tr.209). Đội ngũ công chức QLVH là cầu nối trực tiếp để thực sự đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước về văn hóa đi vào cuộc sống.
Thứ ba, công chức QLVH là lực lượng chủ yếu thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa mới XHCN trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN và HNQT.
Đội ngũ công chức QLVH là một bộ phận tích cực trong sự nghiệp đổi mới văn hóa. Công chức QLVH đã đóng góp vai trò ngày càng quan trọng trong việc sáng tạo, bảo tồn, phát huy, phát triển và truyền bá văn hóa, góp phần giữ vững nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong tiến trình CNH, HĐH đất nước; trong phát triển lực lượng sản xuất, phát triển KT-XH.
Trong sáng tạo văn hóa, giữ vững nền tảng tinh thần của xã hội, vai trò của công chức QLVH thể hiện trong sự sáng tạo văn hóa tư tưởng, văn hóa đạo đức và văn hóa thẩm mỹ, xây dựng con người mới XHCN giàu kỹ năng văn hóa. Bản thân công chức QLVH vừa là chủ thể có khả năng tích hợp và phát huy sức mạnh nội sinh của văn hóa truyền thống dân tộc, vừa là chủ thể tiếp nhận có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới để phát triển nền văn hóa nước nhà.
Thứ tư, công chức QLVH là lực lượng chủ yếu góp phần thực hiện quá trình HNQT về văn hóa
Trong điều kiện hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển hết sức mạnh mẽ, làm cho lực lượng sản xuất mang tính quốc tế hoá ngày càng cao, sự phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia trong quá trình phát triển ngày càng lớn, do đó các quốc gia phải không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với nhau trên mọi lĩnh vực. Vì vậy, HNQT ngày càng sâu rộng trong đó có lĩnh vực văn hóa là tất yếu khách quan.
Như đã trình bày, công chức QLVH tham mưu cho Nhà nước ban hành các văn
bản, chính sách, pháp luật về phát triển văn hóa; là lực lượng trực tiếp tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng tham gia thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hóa. Trên cơ sở đó, có thể khẳng định rằng, đội ngũ công chức QLVH là lực lượng chủ yếu thực hiện quá trình HNQT về văn hóa.
Thứ năm, công chức QLVH là lực lượng có tính quyết định đối với sự thành bại của sự nghiệp phát triển nền văn hóa của đất nước
Hoạt động QLNN trong lĩnh vực văn hóa chủ yếu được vận hành thông qua nền công vụ và đội ngũ công chức. Đội ngũ công chức QLVH là những người có vị trí trong hệ thống cơ quan HCNN, có chức năng thực thi pháp luật và thi hành công vụ nhằm phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội, được Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ. Những nhiệm vụ này do chính đội ngũ công chức QLVH thực hiện, không thể chuyển giao cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào bên ngoài.
Nhiệm vụ cơ bản của đội ngũ công chức QLVH là tham mưu, soạn thảo văn bản pháp luật về QLVH và hướng dẫn thực thi công vụ, thực thi quyền lực nhà nước, thực thi pháp luật trong hoạt động văn hóa; đây là một dạng lao động đặc thù. Công chức QLVH cũng chính là yếu tố đảm bảo cho nền công vụ QLVH hoạt động, vận hành có hiệu quả. Có thể khẳng định rằng, công chức QLVH là lực lượng chủ yếu có tính quyết định đối với sự thành bại của sự nghiệp xây dựng, phát triển nền văn hóa của đất nước.
2.2. Một số vấn đề cơ bản về chất lượng công chức quản lý văn hóa
2.2.1. Khái niệm và các yếu tố cấu thành chất lượng công chức quản lý văn hóa
2.2.1.1. Khái niệm về chất lượng công chức quản lý văn hóa
Để hiểu nội hàm về chất lượng công chức QLVH, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm về chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng công chức. Cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về chất lượng nguồn nhân lực nói chung, chất lượng công chức và chất lượng công chức QLVH trong điều kiện KTTT và HNQT nói riêng.
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Như Ý (1998, tr.331): “Chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị con người, sự vật”. Có thể nói, đây là quan niệm chung nhất về chất lượng nói chung.
PGS.TS. Phùng Rân cho rằng (2008, tr.2): “Chất lượng nguồn nhân lực là năng lực hoạt động của nguồn nhân lực và phẩm chất của nguồn nhân lực”. Đây là một khái niệm rất ngắn gọn, toát lên hai nội dung cơ bản của chất lượng nguồn nhân lực là trí
lực và tâm lực.
Theo PGS.TS. Mai Quốc Chánh (1999, tr.36): “Chất lượng nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: trình độ sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và năng lực phẩm chất”. Theo quan niệm này, nội hàm của chất lượng nguồn nhân lực bao gồm cả về sức khỏe, trình độ chuyên môn và phẩm chất của nguồn nhân lực.
Trong cuốn Đại từ điển Kinh tế thị trường (Đỗ Huy Lân và cộng sự, 1998, tr.36) quan niệm: “Chất lượng nguồn nhân lực là phẩm chất thân thể, văn hóa, đạo đức, tư tưởng và sự thống nhất với kỹ năng lao động tác nghiệp của người có năng lực lao động ở một nước, một địa phương”. Theo quan niệm này thì nội hàm chất lượng nguồn nhân lực bao gồm thể chất, tinh thần, đạo đức và trình độ, kỹ năng lao động.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Kim Diện (2010, tr.24):
“Chất lượng công chức HCNN được phản ánh thông qua các tiêu chuẩn phản ánh trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học, các kỹ năng, kinh nghiệm trong quản lý, thái độ chính trị, đạo đức... của người công chức. Chất lượng của công chức còn bao hàm tình trạng sức khoẻ của người công chức, có đủ điều kiện sức khoẻ cho phép công chức thực thi nhiệm vụ công việc được giao”.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định: “Chất lượng của cán bộ là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác, thể hiện ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ” (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, 1987, tr.132.)
Theo tác giả, chất lượng công chức thể hiện ở trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sự hiểu biết về chính trị, có phẩm chất đạo đức, có đủ điều kiện sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mỗi lĩnh vực hoạt động, mỗi công việc, mỗi ngành nghề khác nhau thì chất lượng công chức cũng được thể hiện và được đánh giá thông qua các tiêu chí khác nhau.
Tổng quan các quan niệm về chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng công chức, tác giả quan niệm về chất lượng công chức QLVH trong điều kiện KTTT và HNQT như sau:
Chất lượng công chức QLVH là sự thống nhất biện chứng giữa trạng thái, đặc trưng, phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn của công chức, thể hiện ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ của công chức QLVH.
Một góc cạnh nguyên lý khác của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về cặp phạm trù, mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng, thì cái riêng không tồn tại độc lập mà trong
mối quan hệ dẫn đến cái chung, ngược lại cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Theo đó, khi nghiên cứu đến chất lượng công chức QLVH không thể nghiên cứu đến chất lượng đội ngũ công chức QLVH, bởi vì chất lượng công chức QLVH được hiểu là cái riêng, chất lượng đội ngũ công chức QLVH được hiểu là cái chung. Nói cách khác, cá nhân tốt chỉ là điều kiện cần để có một đội ngũ tốt. Chất lượng đội ngũ công chức QLVH được xem xét, đánh giá thông qua chất lượng của mỗi cá nhân công chức; xét về bản chất thì chất lượng công chức QLVH cũng là sự đồng nhất của chất lượng đội ngũ công chức QLVH trên các phương diện.
Do KTTT ngày càng phát triển và HNQT ngày càng sâu rộng đòi hỏi công chức QLVH cũng phải không ngừng tự rèn luyện, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn để thích ứng với điều kiện KTTT và HNQT, tức là đòi hỏi chất lượng công chức QLVH phải không ngừng được nâng cao hơn. Đặc biệt là KTTT đòi hỏi công chức QLVH phải có kiến thức về thị trường và cơ chế thị trường để vận dụng kiến thức đó vào trong công tác QLVH để thúc đẩy nền văn hóa của đất nước phát triển.
Mặt khác, trong điều kiện HNQT đòi hỏi công chức QLVH cũng phải có kiến thức hiểu biết về pháp luật, luật lệ quốc tế về văn hóa; nắm được thực trạng, xu hướng phát triển văn hóa và QLVH của các quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở đó công chức QLVH với nhiệm vụ được giao góp phần vào việc phát triển nền văn hóa dân tộc theo hướng cải tạo, xóa bỏ những văn bản cũ, lạc hậu, những văn hóa ngoại lai, lai căng không phù hợp với văn hóa dân tộc. Đồng thời, góp phần vào việc phát triển văn hóa dân tộc truyền thống tốt đẹp cả ở trong nước và giới thiệu xuất khẩu ra thế giới, mở rộng tầm ảnh ưởng của văn hóa dân tộc; chủ động đón nhận, tiếp thu những tinh hoa văn hóa, tiến bộ, hiện đại của thế giới vào trong nước.
Tóm lại, trong điều kiện KTTT và HNQT đặt ra yêu cầu đòi hỏi chất lượng của công chức QLVH phải cao hơn và không ngừng được hoàn thiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác được giao, góp phần không ngừng phát triển nền văn hóa dân tộc định hướng KTTT và HNQT.
2.2.1.2. Các yếu tố cấu thành chất lượng công chức quản lý văn hóa
Chất lượng công chức QLVH được cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản sau:
* Thứ nhất, sức khỏe thể chất và tinh thần (thể lực):
Thể lực là phạm trù dùng để chỉ sức khoẻ, thể chất của công chức, được thể hiện qua sức vóc, tình trạng sức khoẻ của công chức. Thể lực công chức QLVH bao gồm cả về thể chất lẫn tinh thần và sự hài hòa giữa bên trong và bên ngoài. Như vậy,
thể lực công chức QLVH được cấu thành bởi năng lực thể chất và năng lực tinh thần. Công chức QLVH có thể lực tốt là sẽ thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bỉ, dẻo dai của sức khỏe, cơ bắp trong thực hiện công việc, không bệnh tật, có chiều cao và cân nặng hợp lý…
Sức khỏe thể chất là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển của một công chức QLVH toàn diện, cơ thể khoẻ mạnh thì các phẩm chất, năng lực khác của người công chức đó mới có điều kiện nảy nở và phát triển (Nguyễn Hữu Công, 2010, tr.131). Vì nếu không có thể lực tốt thì công chức QLVH sẽ không chịu được sức ép của công việc cũng như không thể có sự tìm tòi, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ của công chức QLVH được. Sức khỏe, thể chất của công chức QLVH được hình thành, duy trì và phát triển phụ thuộc vào thu nhập, mức sống; chế độ ăn uống, chế độ dinh dưỡng; chế độ làm việc; chế độ nghỉ ngơi, nghỉ dưỡng; chế độ chăm sóc sức khỏe; chế độ tuổi tác, giới tính...
Sức khỏe tinh thần là một khái niệm chỉ tình trạng tâm thần và cảm xúc tốt của mỗi công chức QLVH. Từ các nền văn hóa khác nhau, các đánh giá chủ quan và các giả thuyết khoa học khác nhau đều có ảnh hưởng tới định nghĩa về khái niệm "sức khỏe tinh thần". Mặt khác, tình trạng thoải mái, không có rối loạn nào về tinh thần chưa chắc đã được coi là có sức khỏe tinh thần. Sức khoẻ tinh thần là một khái niệm phức hợp, một thành phần cùng với sức khoẻ thể chất tạo nên sức khoẻ (thể lực) của mỗi cá nhân.
Có thể nói, sức khoẻ tinh thần của công chức QLVH là nguồn lực để sống khoẻ mạnh, là nền tảng cho chất lượng cuộc sống, giúp mỗi cá nhân có thể ứng phó một cách tự tin và hiệu quả với mọi thử thách, nguy cơ trong cuộc sống, công việc. Sức khoẻ tinh thần giúp công chức QLVH sống năng động và đạt được các mục tiêu đặt ra trong cuộc sống, công việc và tương tác với người khác với sự tôn trọng và công bằng.
Sức khoẻ tinh thần chính là sự biểu hiện nếp sống lành mạnh, văn minh và có đạo đức. Cơ sở của sức khoẻ tinh thần là sự thăng bằng và hài hoà trong hoạt động tinh thần giữa lý trí và tình cảm.
Đặc thù công việc QLNN về văn hóa đòi hỏi công chức QLVH không nhất thiết phải có hình thể cường tráng, thật khỏe mạnh như một số công chức hoạt động trong một số lĩnh vực khác. Tuy nhiên, công việc của công chức QLVH đòi hỏi phải đảm bảo có sức khỏe dẻo dai, có sự thoải mái về tinh thần để hoàn thành tốt mọi công việc được giao.