Kỳ Vọng Dấu Hồi Quy Các Biến Trong Mô Hình


cũng có thể đo lường được mức độ hiệu quả trong việc quản trị của ngân hàng. Một ngân hàng có lợi nhuận cao thì thường sẽ có khuynh hướng có chênh lệch lãi suất cho vay và huy động thấp hơn, và điều này có nghĩa là nếu mọi yếu tố khác không đổi thì chênh lệch thu nhập ròng của các ngân hàng có lợi nhuận cao sẽ thấp hơn. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng các ngân hàng có lợi nhuận cao là kết quả của sự chênh lệch lãi suất giữa cho vay và huy động cao (Dabla-Norris và Floerkemeier, 2007; Afzal, 2011). Vì vậy bài nghiên cứu kỳ vọng rằng lợi nhuận sẽ có tác động đáng kể đến chênh lệch thu nhập ròng của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu.


Bên cạnh đó, tương tự như cách đo lường của Were và các cộng sự (2014), lợi nhuận của ngân hàng được tính toán bởi tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản. Một sự gia tăng trong giá trị này hàm ý rằng lợi nhuận của ngân hàng đang tăng, hiệu quả quản trị đang tăng.


𝑶𝑪𝒊𝒕 là chi phí hoạt động và được tính bởi tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động



𝑂𝐶 =

𝐶ℎ𝑖 𝑝ℎí ℎ𝑜ạ𝑡 độ𝑛𝑔

𝑇ℎ𝑢 𝑛ℎậ𝑝 ℎ𝑜ạ𝑡 độ𝑛𝑔


Chi phí hoạt động được xem như là yếu tố quan trọng đối với NHTM và do đó sẽ có tác động đến chênh lệch thu nhập ròng của ngân hàng thông qua lãi suất cho vay và lãi suất huy động ngân hàng (Tarus và các cộng sự, 2012). Các ngân hàng sẽ gánh chịu chi phí của việc thực hiện nhiệm vụ trung gian tài chính như giám sát các khoản vay đã cấp cho các khách hàng, cũng như đánh giá hồ sơ của người đi vay và theo dõi các dự án mà ngân hàng đang liên kết cấp tín dụng. Một sự gia tăng trong chi phí hoạt động được cho rằng sẽ có tác động cùng chiều đến chênh lệch thu nhập ròng. Nguyên nhân bởi vì các ngân hàng phải trải qua giai đoạn có chi phí hoạt động cao thì thường sẽ thực hiện gia tăng lãi suất cho vay so với lãi suất huy động đề nhằm bù đắp phần tăng trong chi phí hoạt động, nói cách khác chênh lệch thu nhập ròng sẽ gia tăng (Maudos và Fernández de Guevara, 2004; Martinez


Peria và Mody, 2004). Các nghiên cứu thực nghiệm của Claessens và các cộng sự (2001), Abreu và Mendes (2003), Samy (2003), Carbo và Rodriguez (2007), Ugur và Erkus (2010), Maria và Agoraki (2010), Tarus và các cộng sự (2012). Vì vậy bài nghiên cứu kỳ vọng rằng chi phí hoạt động sẽ có tác động cùng chiều và đáng kể đến chênh lệch thu nhập ròng của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu.


Bên cạnh đó, tương tự như cách đo lường của Were và các cộng sự (2014), chi phí hoạt động của ngân hàng được tính toán bởi tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động. Một sự gia tăng trong giá trị này hàm ý rằng chi phí hoạt động ngân hàng đang tăng, hiệu quả chi phí đang giảm.


𝑳𝑰𝑸𝑼𝑰𝑫𝒊𝒕 là rủi ro thanh khoản và được tính bởi tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tài sản ngân hàng


𝐿𝐼𝑄𝑈𝐼𝐷𝑖𝑡 =

𝑇à𝑖 𝑠ả𝑛 𝑡ℎ𝑎𝑛ℎ 𝑘ℎ𝑜ả𝑛

∑ 𝑇à𝑖 𝑠ả𝑛


Rủi ro thanh khoản thường được xác định bằng tỷ lệ tài sản thanh khoản ngân hàng nắm giữ trên tổng tài sản của ngân hàng. Rủi ro này thể hiện tình trạng ngân hàng không có đủ tiền mặt hoặc khả năng vay mượn nhằm đáp ứng các khoản rút tiền ồ ạt của các khách hàng gửi tiền hoặc nhu cầu giải ngân mới. Rủi ro thanh khoản được kỳ vọng có tác động cùng chiều và đáng kể đến chênh lệch thu nhập ròng (Angbazo, 1997). Các ngân hàng có rủi ro thanh khoản cao thì thường có xu hướng vay mượn các nguồn vốn với chi phí cao và do đó sẽ tính vào lãi suất cho vay áp dụng cho các khách hàng một phần bù thanh khoản, và điều này dẫn đến chênh lệch thu nhập ròng cao. (Khawaja và Din, 2007; Ahokpossi, 2013; Were và các cộng sự, 2014). Vì vậy Luận văn kỳ vọng rằng rủi ro thanh khoản sẽ có tác động cùng chiều đáng kể đến chênh lệch thu nhập ròng của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu.


Bên cạnh đó, tương tự như cách đo lường của Were và các cộng sự (2014),


rủi ro thanh khoản của ngân hàng được tính toán bởi tỷ lệ tài sản thanh khoản được nắm giữ trên tổng tài sản. Một sự gia tăng trong tỷ lệ này hàm ý rằng rủi ro thanh khoản của ngân hàng đang giảm.


𝑰𝑵𝑫𝑪𝑶𝑵𝒊𝒕 là mức độ tập trung ngành ngân hàng và được tính bởi tỷ lệ 03 ngân hàng lớn nhất Việt Nam trong tổng tài sản của hệ thống ngân hàng.


Theo giả thuyết sức mạnh thị trường (Market power) và cấu trúc hiệu quả, thì mức độ tập trung ngân hàng và lợi nhuận của ngân hàng sẽ có mối tương quan cùng chiều với nhau (Almeida và Divino, 2015; Saona, 2016). Bourke (1989) và Molyneux và Thornton (1992) khẳng định rằng mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ tập trung ngân hàng và lợi nhuận của ngân hàng là do: mức độ tập trung ngân hàng càng cao cho thấy thị trường ngân hàng đang có sự độc quyền càng cao, cho nên khi đó sự gia tăng trong sức mạnh thị trường sẽ tạo ra lợi nhuận độc quyền. Bên cạnh đó, giả thuyết thông đồng (collusion hypothesis) cũng ủng hộ một mối quan hệ cùng chiều giữa giữa mức độ tập trung ngân hàng và lợi nhuận của ngân hàng. Theo đó giả thuyết này cho rằng thị trường càng tập trung thì sẽ làm giảm chi phí thông đồng giữa các ngân hàng và do đó sẽ đẩy nhanh quá trình thông đồng giữa các ngân hàng với nhau. Tuy nhiên nếu số lượng ngân hàng đang hoạt động nhiều thì chi phí thông đồng sẽ gia tăng bởi vì việc thông đồng sẽ trở nên khó thực hiện (Goddard và các cộng sự, 2004). Tuy nhiên, nếu sự thông đồng có thể diễn ra, các ngân hàng sẽ có thể kiếm nhiều lợi nhuận hơn. Cho nên trong Luận văn này, mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ tập trung ngân hàng và chênh lệch thu nhập ròng của ngân hàng được kỳ vọng tương tự với kỳ vọng của Saona (2016) đã kỳ vọng trong nghiên cứu của tác giả.


𝑮𝑫𝑷𝑮𝑹𝒊𝒕 là tăng trưởng kinh tế và được tính bởi sự gia tăng trong GDP



𝐺𝐷𝑃𝑅 =

𝐺𝐷𝑃𝑡 − 𝐺𝐷𝑃𝑡−1

𝐺𝐷𝑃𝐺𝑅𝑡−1



Tăng trưởng kinh tế được xem như là yếu tố quan trọng trong việc xác định chênh lệch thu nhập ròng bởi vì tăng trưởng kinh tế có tác động đến nguồn cung và cầu của các dịch vụ ngân hàng chẳng hạn như tiền gửi và cho vay. Tuy nhiên, tác động của tăng trưởng kinh tế đến chênh lệch thu nhập ròng thì lại tương đối không rõ ràng. Trong khi một số nghiên cứu lại cho rằng tăng trưởng kinh tế và chênh lệch thu nhập ròng sẽ có mối tương quan âm như nghiên cứu Demirguc – Kunt và Huizinga (1999), Demirguc - Kunt và các cộng sự (2004), Carbo và Rodriguez (2007). Cụ thể các nghiên cứu này cho rằng sự gia tăng trong tăng trưởng kinh tế là kết quả của sự gia tăng các hoạt động thực của nền kinh tế và cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của người đi vay của ngân hàng. Sự cải thiện hiệu quả hoạt động này sẽ làm giảm rủi ro của người đi vay và do đó phần bù rủi ro sẽ bị suy giảm tương ứng, trong tình huống này, các ngân hàng sẽ phải giảm lãi suất cho vay tương ứng. Nói cách khác, chênh lệch thu nhập ròng giảm. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu thực nghiệm khác tìm thấy tăng trưởng kinh tế có tác động cùng chiều đến chênh lệch thu nhập ròng như Claessens và các cộng sự (2001). Lập luận cho mối quan hệ này là các các ngân hàng quan tâm vào khối lượng cho vay hơn là lãi suất cho vay, cho nên khi nền kinh tế tăng trưởng tốt thì sẽ giúp cho các công ty mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư máy móc thiết bị và dẫn đến nhu cầu vay vốn cao hơn. Điều này sẽ làm gia tăng thu từ lãi của các ngân hàng và kết quả là chênh lệch thu nhập ròng sẽ tăng. Vì vậy Luận văn kỳ vọng rằng tăng trưởng kinh tế sẽ có tác động đáng kể đến chênh lệch thu nhập ròng của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu.


Bên cạnh đó, tương tự như cách đo lường của Were và các cộng sự (2014), tăng trưởng kinh tế được tính toán bởi sự gia tăng trong GDP của quốc gia. Một sự gia tăng trong giá trị này hàm ý rằng nền kinh tế Việt Nam đang có sự tăng trưởng.


𝑰𝑵𝑭𝒍𝒊𝒕 là lạm phát và được tính bởi sự gia tăng trong chỉ số giá tiêu dùng.



𝐼𝑁𝐹𝐿 =

𝐶𝑃𝐼𝑡 − 𝐶𝑃𝐼𝑡−1

𝐶𝑃𝐼𝑡



Một số nghiên cứu gần đây đã có những chú ý tương đối đến tác động của lạm phát đến chênh lệch thu nhập ròng (Rasiah, 2010). Chẳng hạn như Perry (1992) đã lập luận tác động của lạm phát đến chênh lệch thu nhập ròng của ngân hàng sẽ phụ thuộc vào việc mức lạm phát của quốc gia có được dự báo hay không được dự báo. Nếu lạm phát được dự báo đúng thì các ngân hàng có thể tiến hành điều chỉnh lãi suất áp dụng cho các khách hàng đang giao dịch với ngân hàng ngay lập tức, và do đó sẽ gia tăng chênh lệch thu nhập ròng. Mặt khác, nếu lạm phát không được dự báo (hoặc dự báo sai) thì các ngân hàng sẽ thụ động trong việc điều chỉnh lãi suất áp dụng cho các khách hàng đang giao dịch với ngân hàng, và điều này sẽ ảnh hưởng ngược chiều đến chênh lệch thu nhập chênh lệch thu nhập ròng. Qua đây có thể thấy rằng, trong trường hợp nào, lạm phát cũng đều có tác động đáng kể đến chênh lệch thu nhập ròng. Một số nghiên cứu của Demirguc – Kunt và Huizinga (1999), Claessens và các cộng sự (2001), Drakos (2003) đã tìm thấy mối tương quan dương giữa lạm phát và chênh lệch thu nhập ròng. Trong khi đó, Abreu và Mendes (2003), Samy (2003), Martinez và Mody (2004), Maria và Agoraki (2010) phát hiện thấy mối tương quan âm giữa lạm phát và chênh lệch thu nhập ròng. Vì vậy bài nghiên cứu kỳ vọng rằng lạm phát sẽ có tác động đáng kể đến chênh lệch thu nhập ròng của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu.


Bên cạnh đó, tương tự như cách đo lường của Were và các cộng sự (2014), lạm phát được tính toán bởi sự gia tăng trong chỉ số giá tiêu dùng của quốc gia. Một sự gia tăng trong giá trị này hàm ý rằng lạm phát của quốc gia đang gia tăng.


𝜺𝒊𝒕 sai số mô hình


Bảng 3.2 Kỳ vọng dấu hồi quy các biến trong mô hình


Biến

Ký hiệu

Đo lường

Dấu kỳ vọng

Biến phụ thuộc

Chênh lệch thu

nhập ròng

INTSPREAD1

𝑇ℎ𝑢 𝑛ℎậ𝑝 𝑡ừ 𝑙ã𝑖 𝑡ℎ𝑢ầ𝑛

∑ 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛


Chênh lệch thu

nhập ròng

INTSPREAD2

𝑇ℎ𝑢 𝑛ℎậ𝑝 𝑡ừ 𝑙ã𝑖 𝐶ℎ𝑖 𝑝ℎí 𝑡ừ 𝑙ã𝑖

∑𝐶ℎ𝑜 𝑣𝑎𝑦 ∑𝑇𝑖ề𝑛 𝑔ử𝑖


Biến độc lập

Rủi ro tín dụng

CR

Nợ xấu

Dư nợ cho vay

+/-

Quy mô

SIZE

𝐿𝑜𝑔 (∑𝑇à𝑖 𝑠ả𝑛)

+

Chi phí hoạt động

OC

Chi phí hoạt động Thu nhập hoạt động

+

Lợi nhuận

PROFIT

Lợi nhuận sau thuế

∑ Tài sản

+/-

rủi ro thanh khoản

LIQUID

Tài sản thanh khoản

∑ Tài sản

+


Mức độ tập trung ngành ngân hàng


INDCON

tỷ lệ 03 ngân hàng lớn nhất Việt Nam trong tổng tài sản của hệ thống ngân hàng

+

Tăng trưởng kinh tế

GDPGR

𝐺𝐷𝑃𝑡 − 𝐺𝐷𝑃𝑡−1

𝐺𝐷𝑃𝐺𝑅𝑡−1

+/-

Lạm phát

INFL

𝐶𝑃𝐼𝑡 − 𝐶𝑃𝐼𝑡−1

𝐶𝑃𝐼𝑡

+/-

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Các yếu tố tác động đến chênh lệch thu nhập ròng của ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 6


(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu)


3.2.2 Phương pháp nghiên cứu – Quy trình thực hiện

3.2.2.1 Phương pháp nghiên cứu

Saona (2016) đã cho rằng trong mô hình nghiên cứu của tác giả hiện tượng nội sinh có tồn tại khi xem xét ảnh hưởng của các yếu tố đến chênh lệch thu nhập ròng của ngân hàng, do đó Saona (2016) đã đề nghị sử dụng phương pháp hồi quy GMM để khắc phục vấn đề nội sinh giữa các biến số trong mô hình nghiên cứu.

Hơn thế nữa các nghiên cứu trước đây có sử dụng phương pháp hồi quy GMM trong nghiên cứu thì đều đề cập rằng: ưu điểm của phương pháp này so với các phương pháp hồi quy là có thể khắc phục được vấn đề nội sinh, tự tương quan và phương sai thay đổi. Cho nên Luận văn nhận thấy đây là phương pháp hồi quy có thể khắc phục hầu hết các vấn đề tồn tại khi hồi quy bởi các phương pháp khác như phương pháp OLS, 2SLS. Đồng thời, qua việc kiểm định tự tương quan và phương sai thay đổi (như kết quả trong phần phụ lục), Luận văn thấy rằng tồn tại tự tương quan và phương sai thay đổi trong mô hình nghiên cứu. Cho nên kết hợp với các vấn đề đã đề cập (có thể tồn tại vấn đề nội sinh, và tồn tại tự tương quan và phương sai thay đổi), Luận văn sử dụng phương pháp hồi quy GMM như Saona (2016) đã đề nghị để có thể khắc phục hết các vấn đề này và đưa ra kêt quả nghiên cứu đáng tin cậy để phân tích.

Tuy nhiên, tương tự như các phương pháp khác, để cho thấy kết quả ước lượng từ phương pháp hồi quy đã chọn là đáng tin cậy và có thể phân tích thì yêu cầu phải thỏa hai kiểm định là kiểm định AR(2) và kiểm định Hansen, trong đó kiểm định AR(2) xem xét vấn đề tự tương quan bậc hai, với giả thuyết H0 là không có tự tương quan bậc hai, do đó nếu p-value của kiểm định càng lớn (lớn hơn mức ý nghĩa thống kê) thì cho thấy không tồn tại tự tương quan trong mô hình. Và kiểm định Hansen xem xét tính giá trị của các biến công cụ với giả thuyết H0 của kiểm định là các biến công cụ không tương quan với phần dư của mô hình nghiên cứu, vì vậy nếu p-value của kiểm định lớn hơn mức ý nghĩa thống kê thì cho thấy các biến công cụ có giá trị. Khi thỏa cả hai kiểm định thì phương pháp ước lượng GMM có thể đưa ra kết quả đáng tin cậy.


3.2.2.2 Quy trình thực hiện

Như đã đề cập ở trên cùng với các mục tiêu nghiên cứu cũng như câu hỏi nghiên cứu đã đề ra trong chương 01, Luận văn lần lượt thực hiện quy trình nghiên cứu như sau:

Bước 1: Thống kê mô tả


Bước đầu xem xét các giá trị thống kê của các biến số thông qua giá trị trung bình, giá trị độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất, trung vị và giá trị lớn nhất.

Bước 2: Ma trận tương quan


Sau đó bài nghiên cứu tiến hành lập ma trận tương quan nhằm mục đích xem xét mối tương quan tuyến tính giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc; cũng như xem xét hệ số tương quan giữa các biến độc lập để xem có tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu hay không?

Bước 3: Kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan


Tiếp theo, bài nghiên cứu tiến hành kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan ở từng phương trình hồi quy để từ đó xem liệu nên dùng phương pháp ước lượng nào cho phù hợp? Phương pháp ước lượng OLS hay phương pháp ước lượng GMM? Trong trường hợp có tồn tại phương sai thay đổi hoặc tự tương quan thì phương pháp ước lượng GMM sẽ được sử dụng vì có thể khắc phục được phương sai thay đổi hoặc tự tương quan trong mô hình nghiên cứu.

Bước 4: Kiểm định AR(2) và Hansen


Tiếp theo, để cho thấy kết quả đạt được từ mô hình GMM là tin cậy, Bài nghiên cứu tiến hành thực hiện kiểm định AR(2) và Hansen.

Bước 5: Phân tích kết quả nghiên cứu


Cuối cùng, bài nghiên cứu sẽ phân tích và thảo luận các kết quả đạt được

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/12/2023