Tổng Hợp Bằng Chứng Thực Nghiệm


Biến độc lập

ROAE

POOLED

OLS

FEM

REM

REM_SCC

efficiency

-0.3163

-0.2987

-0.3005

-0.3005

(0.0219)***

(0.0238)***

(0.0221)***

(0.0254)***

lrisk

-0.0047

0.0257

0.0177

0.0177

-0.0111

(0.0121)**

-0.0114

-0.0149

busmix

2.7638

2.9979

2.9541

2.9541

(0.4843)***

(0.4581)***

(0.4491)***

(0.4595)***

hhi

0.0422

0.2416

0.1307

0.1307

-0.1827

-0.2427

-0.1861

-0.2289

inflation

0.0019

0.0018

0.0018

0.0018

(0.0005)***

(0.0004)***

(0.0004)***

(0.0007)**

growth

-0.0019

-0.0016

-0.0014

-0.0014

-0.0053

-0.0046

-0.0046

-0.0023

_cons

0.1399

0.0074

0.1149

0.1149

-0.1246

-0.2426

-0.1613

-0.1333

R2

0.66

0.66

0.66

0.66

N

276

276

276

276

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Nguyễn Xuân Hoàng - 11

Nguồn: Kết quả phân tích mẫu dữ liệu nghiên cứu từ phần mềm Stata 12 (phụ lục 8)


Ghi chú: Các số trong ngoặc chỉ sai số chuẩn của từng hệ số, các dấu *, ** và *** chỉ hệ số có ý nghĩa thống kê ở các mức ý nghĩa lần lượt là 10%, 5% và 1%.

Kết quả của mô hình REM_SCC và REM khá tương đồng khi các biến adequacy, crisk, efficiency, busmix và inflation đều tìm thấy bằng chứng có ảnh hưởng đến ROAE nhưng với mức ý nghĩa đã thay đổi.

Tác giả lần lượt hồi quy với các mô hình POOLED OLS, FEM, REM với biến phụ thuộc ROAA, ROAE, tiếp đó thực hiện các kiểm định để lựa chọn mô hình và khắc phục các vi phạm giả thuyết hồi quy của mô hình. Kết quả là mô hình FEM_SCC cho biến phụ thuộc ROAA và mô hình REM_SCC cho biến phụ thuộc ROAE đã khắc phục được phương sai sai số thay đổi và hiện tượng tự tương quan, do đó tác giả chọn làm mô hình phân tích kết quả thực nghiệm.


4.3 Thảo luận kết quả nghiên cứu


4.3.1 Mô hình đươc chọn


Đối với biến phụ thuộc ROAA, mô hình FEM_SCC được chọn cho kết quả như sau:

𝑅𝑂𝐴𝐴 = 0.0352 + 0.0189 𝑎𝑑𝑒𝑞𝑢𝑎𝑐𝑦 − 0.0311 𝑒𝑓𝑓𝑖𝑐𝑖𝑒𝑛𝑐𝑦 + 0.0031 𝑙𝑟𝑖𝑠𝑘 + 0.3776 𝑏𝑢𝑠𝑚𝑖𝑥 + 𝜀

Đối với biến phụ thuộc ROAE, mô hình REM_SCC được chọn cho kết quả như sau:

𝑅𝑂𝐴𝐸 = 0.1149 − 0.4123 𝑎𝑑𝑒𝑞𝑢𝑎𝑐𝑦 − 0.8446 𝑐𝑟𝑖𝑠𝑘 −

0.3005 𝑒𝑓𝑓𝑖𝑐𝑖𝑒𝑛𝑐𝑦 + 2.9541 𝑏𝑢𝑠𝑚𝑖𝑥 + 0.0018 𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛 + 𝜀


Các bằng chứng thực nghiệm từ kết quả hồi quy được trình bày ở bảng 4.16:


Bảng 4.16: Tổng hợp bằng chứng thực nghiệm



Biến độc lập

Biến phụ thuộc đại diện khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại

ROAA

ROAE

size

Chưa tìm thấy bằng chứng

Chưa tìm thấy bằng chứng

adequacy

Cùng chiều (**)

Ngược chiều (***)

crisk

Chưa tìm thấy bằng chứng

Ngược chiều (**)

efficiency

Ngược chiều (***)

Ngược chiều (***)

lrisk

Cùng chiều (**)

Chưa tìm thấy bằng chứng

busmix

Cùng chiều (***)

Cùng chiều (***)

hhi

Chưa tìm thấy bằng chứng

Chưa tìm thấy bằng chứng

inflation

Chưa tìm thấy bằng chứng

Cùng chiều (**)

growth

Chưa tìm thấy bằng chứng

Chưa tìm thấy bằng chứng

Các dấu *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%


4.3.2 Thảo luận kết quả


Ở phần này, tác giả làm rõ kết quả nghiên cứu theo từng giả thuyết đã được đưa ra chương 3:

Giả thuyết H1: Quy mô ngân hàng tác động cùng chiều đến KNSL của NHTM.

Kết quả hồi quy theo mô hình FEM_SCC với biến phụ thuộc ROAA từ bảng

4.14 và mô hình REM_SCC với biến phụ thuộc ROAE từ bảng 4.15 cho thấy chưa có bằng chứng về tác động của biến size đại diện cho quy mô đến KNSL của NHTM. Như vậy, chưa đủ cơ sở để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết H1, kết quả thực nghiệm này phù hợp với nghiên cứu của Athanasoglou và cộng sự (2008) khi đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của ngân hàng Hy Lạp giai đoạn từ 1985 đến năm 2011 đã cho thấy ảnh hưởng của quy mô đến KNSL của ngân hàng là không quan trọng. Thực tế ở Việt Nam có nhiều NHTM cũng đang đối mặt với thực trạng quy mô gia tăng nhưng chưa đem lại hiệu quả tương xứng. Xét trong mẫu nghiên cứu có thể thấy trong giai đoạn 2006 – 2017 quy mô ngân hàng thương mại liên tục gia tăng nhưng ROAA, ROAE lại biến động liên tục, có lúc tăng lúc giảm, nhất là trong giai đoạn từ 2011 – 2014 cả ROAA và ROAE liên tục giảm trong khi quy mô liên tục tăng. Điều này cho thấy nếu gia tăng quy mô mà chưa khai thác hết lợi thế hay nói cách khác chưa tối ưu hóa được danh mục tài sản làm cho lợi nhuận mang lại không như kỳ vọng, từ đó làm giảm KNSL. Trong giai đoạn 2015 – 2017, các NHTM đã dần khai thác được lợi thế về quy mô tài sản, điều này thể hiện khi cả ROAA và ROAE đều tăng trở lại qua các năm khi quy mô tài sản tăng.

Giả thuyết H2: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản tác động cùng chiều đến KNSL của NHTM.

Kết quả hồi quy từ bảng 4.14 và 4.15 cho thấy với mô hình FEM_SCC cho biến phụ thuộc ROAA, biến adequacy có hệ số ước lượng bằng 0.0189 với mức ý nghĩa 5%, với mô hình REM_SCC cho biến phụ thuộc ROAE biến adequacy có hệ


số ước lượng bằng -0.4123 với mức ý nghĩa 1%. Kết quả này cho thấy khi tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản tăng, hay nói cách khác vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản thì lợi nhuận tạo ra trên tổng tài sản cao nhưng lại làm cho lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu giảm. Điều này có nghĩa là các ngân hàng thương mại Việt Nam đã khai thác hiệu quả vốn chủ sở hữu khi tăng vốn để mang lại thu nhập tốt hơn xét trên bình diện về tổng tài sản, tuy nhiên mức độ tăng của thu nhập mang lại chưa tương xứng với mức tăng vốn, do đó KNSL xét trên bình diện về vốn chủ sở hữu giảm. Kết quả này phù hợp với phần phân tích thống kê mô tả ở mục 4.1, ta có thể thấy trong những năm 2006-2008, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản liên tục tăng (chủ yếu tăng vốn để đáp ứng các quy định về vốn pháp định, vốn điều lệ) trong khi ROAE lại liên tục giảm, diễn biến này tương tự với giai đoạn 2011-2013. Trong những năm 2014-2017, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản liên tục giảm nhưng ROAE lại liên tục tăng.

Như vậy với chiều tác động khác nhau tùy thuộc vào biến đại diện cho KNSL của NHTM thì chưa đủ cơ sở để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết H2. Kết quả thực nghiệm với biến phụ thuộc ROAA phù hợp với các nghiên cứu của Pasiouras và Kosmidou (2007), Athanasoglou và cộng sự (2008), Dietrich và Wanzenried (2011), Petria và cộng sự (2015). Kết quả tương tự được tìm thấy trong các nghiên cứu của Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang (2013), Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016) về các NHTM tại Việt Nam.

Giả thuyết H3: Rủi ro tín dụng tác động ngược chiều đến KNSL của NHTM.

Theo kết quả hồi quy từ bảng 4.14 và 4.15, mô hình FEM_SCC đối với biến phụ thuộc ROAA cho biến crisk có hệ số ước lượng bằng -0.0113 nhưng không có ý nghĩa thống kê, mô hình REM_SCC đối với biến phụ thuộc ROAE cho biến crisk có hệ số ước lượng bằng -0.8446 với mức ý nghĩa 5%. Như vậy theo kết quả thực nghiệm, giả thuyết H3 được chấp nhận, rủi ro tín dụng tác động ngược chiều đến KNSL của NHTM. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Sufian và Chong


(2008), Athanasoglou và cộng sự (2008), Capraru và Ihnatov (2014), Petria và cộng sự (2015) và thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại giai đoạn 2006- 2017. Ở mục 4.1 khi phân tích thông kê mô tả, ta có thể thấy đa phần diễn biến của rủi ro tín dụng và ROAE ngược chiều nhau, đây là điều phù hợp với thực tế hoạt động của các NHTM Việt Nam. Rõ ràng là khi có khoản tín dụng có chất lượng kém, NHTM không chỉ không thu được lãi mà còn phải trích lập dự phòng, do đó lợi nhuận giảm dẫn đến giảm KNSL.

Giả thuyết H4: Hiệu quả quản lý tác động ngược chiều đến KNSL của NHTM.

Kết quả hồi quy từ bảng 4.14 và 4.15 cho thấy với mô hình FEM_SCC cho biến phụ thuộc ROAA, biến efficiency có hệ số ước lượng bằng -0.0311 với mức ý nghĩa 1%, với mô hình REM_SCC cho biến phụ thuộc ROAE biến efficiency có hệ số ước lượng bằng -0.3005 với mức ý nghĩa 1%. Như vậy biến efficiency đại diện cho hiệu quả quản lý tác động ngược chiều đến KNSL của NHTM trong cả hai trường hợp biến đại diện là ROAA và ROAE. Hiệu quả quản lý được đo lường bởi chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động, yếu tố chính của chi phí hoạt động là chi phí quản lý mà chủ yếu là lương nhân viên và phúc lợi, khi chi phí này gia tăng dẫn đến tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động tăng hàm ý quản lý kém hiệu quả hơn. Rõ ràng khi chi phí hoạt động gia tăng do quản lý kém hiệu quả mà thu nhập hoạt động chưa tăng tương xứng thì lợi nhuận ngân hàng sẽ giảm từ đó làm giảm khả năng sinh lời. Như đã phân tích mô tả ở mục 4.1, có thể thấy xu hướng chung của chi phí quản lý trong cả giai đoạn nghiên cứu 2006-2017 là tăng, trong khi xu hướng chung của ROAA và ROAE là giảm. Trong giai đoạn nghiên cứu, các NHTM liên tục mở rộng quy mô, điều này đi đôi với việc tăng số lượng nhân sự dẫn đến chi phí lương, phúc lợi, văn phòng phẩm… cũng tăng tương ứng. Do đó mối quan hệ ngược chiều giữa hiệu quả quản lý và KNSL là phù hợp với thực tế hoạt động của các NHTM.


Như vậy, giả thuyết H4 được chấp nhận, kết quả thực nghiệm này phù hợp với các nghiên cứu của Pasiouras và Kosmidou (2007), Alexiou và Sofoklis (2009), Dietrich và Wanzenried (2011), Capraru và Ihnatov (2014), Petria và cộng sự (2015), Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015).

Giả thuyết H5: Rủi ro thanh khoản tác động cùng chiều đến KNSL của NHTM.

Theo kết quả hồi quy từ bảng 4.14 và 4.15, mô hình FEM_SCC đối với biến phụ thuộc ROAA cho biến lrisk có hệ số ước lượng bằng 0.0031 với mức ý nghĩa 5%, mô hình REM_SCC đối với biến phụ thuộc ROAE cho biến lrisk có hệ số ước lượng bằng 0.0177 nhưng không có ý nghĩa thống kê. Như vậy biến lrisk đại diện cho rủi ro thanh khoản tác động cùng chiều đến KNSL của NHTM. Rủi ro thanh khoản được đo lường bằng tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tiền gửi của khách hàng. Ở mục 4.1 khi mô tả về rủi ro thanh khoản trong giai đoạn nghiên cứu, có thể thấy diễn biến của rủi ro thanh khoản tương tự ROAA khi cùng xu hướng tăng trong những năm 2006-2011, cùng giảm trong những năm 2011-2014 và đều tăng trở lại trong những năm 2015-2017. Mối quan hệ cùng chiều giữa rủi ro thanh khoản và KNSL cho thấy các ngân hàng thương mại đã quản lý thanh khoản hiệu quả, vừa đảm bảo dự trữ tài sản có tính thanh khoản cao đáp ứng khả năng thanh khoản vừa sử dụng nguồn vốn huy động được để cấp tín dụng mang lại thu nhập tốt. Như vậy, giả thuyết H5 được chấp nhận, kết quả thực nghiệm này phù hợp với các nghiên cứu của Pasiouras và Kosmidou (2007), Alexiou và Sofoklis (2009), của Capraru và Ihnatov (2014), Petria và cộng sự (2015).

Giả thuyết H6: Mức độ hỗn hợp kinh doanh tác động cùng chiều đến KNSL của NHTM.

Kết quả hồi quy từ bảng 4.14 và 4.15 cho thấy với mô hình FEM_SCC cho biến phụ thuộc ROAA, biến busmix có hệ số ước lượng bằng 0.3776 với mức ý nghĩa 1%, với mô hình REM_SCC cho biến phụ thuộc ROAE biến busmix có hệ số ước lượng bằng 2.9541 với mức ý nghĩa 1%. Như vậy biến busmix đại diện cho


mức độ hỗn hợp kinh doanh tác động cùng chiều đến KNSL của NHTM trong cả hai trường hợp biến đại diện là ROAA và ROAE. Mức độ hỗn hợp kinh doanh được đo lường bằng tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản, khi ngân hàng thực hiện đa dạng hóa trong hoạt động kinh doanh sẽ giúp tạo ra nguồn nhiều nguồn thu nhập khác nhau. Mối quan hệ cùng chiều này thể hiện sự đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại có hiệu quả, tạo ra được nhiều nguồn thu nhập trong khi vẫn kiểm soát được chi phí hợp lý để thu được lợi nhuận tốt từ đó tăng khả năng sinh lời. Kết quả thực nghiệm này phù hợp với các nghiên cứu của Sufian và Chong (2008), Petria và cộng sự (2015), do đó chấp nhận giả thuyết H6.

Giả thuyết H7: Mức độ tập trung thị trường tác động ngược chiều đến KNSL của NHTM.

Kết quả hồi quy theo mô hình FEM_SCC với biến phụ thuộc ROAA từ bảng

4.14 và mô hình REM_SCC với biến phụ thuộc ROAE từ bảng 4.15 cho thấy chưa có bằng chứng về tác động của biến hhi đại diện cho mức độ tập trung thị trường đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại. Mức độ tập trung thị trường là yếu tố đặc trưng của ngành cho biết mức độ cạnh tranh của thị trường là hoàn hảo hay độc quyền cao, được đo lường bằng tổng bình phương thị phần của mỗi ngân hàng trong ngành, giá trị của biến số này càng gần 1 thì thị trường càng độc quyền và càng gần 0 thì thị trường càng cạnh tranh. Thực trạng thị trường ngành ngân hàng Việt Nam cho thấy mặc dù gần đây nhiều ngân hàng thương mại đã hợp nhất, sáp nhập với nhau trong quá trình tái cấu trúc nhưng thị trường vẫn có tính cạnh tranh cao. Đặc điểm của thị trường tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại về chính sách sản phẩm, dịch vụ, từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Xét trên mẫu dữ liệu nghiên cứu, tác giả chưa tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa mức độ tập trung thị trường và KNSL của ngân hàng thương mại. Như vậy, chưa đủ cơ sở để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết H7, kết quả thực nghiệm này phù hợp với nghiên cứu của Capraru và Ihnatov (2014).

Giả thuyết H8: Lạm phát tác động ngược chiều đến KNSL của NHTM.


Theo kết quả hồi quy từ bảng 4.14 và 4.15, mô hình FEM_SCC đối với biến phụ thuộc ROAA cho biến inflation có hệ số ước lượng bằng 0.0001 nhưng không có ý nghĩa thống kê, mô hình REM_SCC đối với biến phụ thuộc ROAE cho biến inflation có hệ số ước lượng bằng 0.0018 với mức ý nghĩa 5%. Như vậy, biến inflation đại diện cho lạm phát có tác động cùng chiều đến KNSL của NHTM, giả thuyết H8 bị bác bỏ. Ở mục 4.1 khi mô tả về lạm phát, có thể thấy diễn biến của lạm phát tương tự diễn biến của ROAE khi cùng tăng liên tục trong những năm 2009- 2011, cùng giảm liên tục trong những năm 2011-2014 và cùng tăng liên tục trở lại trong những năm gần đây từ 2015 đến 2017. Mối quan hệ cùng chiều này cho thấy các NHTM Việt Nam đã dự báo khá tốt lạm phát để từ đó có những điều chỉnh hợp lý về lãi suất và mang lại kết quả thu nhập tốt. Kết quả thực nghiệm này phù hợp với nghiên cứu của Pasiouras và Kosmidou (2007), Capraru và Ihnatov (2014) với quan điểm cho rằng nếu lạm phạt được dự báo tương đối chính xác và ngân hàng sử dụng thông tin này để thay đổi lãi suất nhanh hơn sự thay đổi của chi phí do lạm phát gây ra, đảm bảo thu nhập lớn hơn chi phí thì lạm phát tác động cùng chiều đến KNSL. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016) về các NHTM tại Việt Nam.

Giả thuyết H9: Tốc độ tăng trưởng kinh tế tác động cùng chiều đến KNSL của NHTM.

Kết quả hồi quy theo mô hình FEM_SCC với biến phụ thuộc ROAA từ bảng

4.14 và mô hình REM_SCC với biến phụ thuộc ROAE từ bảng 4.15 cho thấy chưa có bằng chứng về tác động của biến growth đại diện cho tốc độ tăng trưởng kinh tế đến KNSL của NHTM. Ở mục 4.1 khi mô tả về tăng trưởng kinh tế, có thể thấy diễn biến của tăng trưởng kinh tế và ROAA, ROAE có giai đoạn cùng xu hướng nhưng có giai đoạn lại ngược xu hướng với nhau. Cụ thể, trong những năm 2006- 2009 cả tăng trưởng kinh tế và ROAA, ROAE đều có xu hướng giảm, nhưng những năm 2009-2011 khi tăng trưởng kinh tế giảm thì ROAA và ROAE tăng. Trong những năm 2012-2015, khi tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng thì ROAA và

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/04/2024