Khả Năng Sinh Lời Của Các Nhtm Việt Nam Giai Đoạn 2006 – 2017


cho vay. Thay vào đó, ngân hàng tìm kiếm kênh đầu tư an toàn hơn thông qua đầu tư trái phiếu chính phủ.

Từ năm 2013 đến 2017, tín dụng duy trì xu hướng tăng nhẹ và khá thận trọng cho thấy các ngân hàng không còn đặt mục tiêu thúc đẩy tín dụng bằng mọi giá mà còn xem xét đến các yếu tố rủi ro và tiềm lực tài chính của mình. Bên cạnh đó, nền kinh tế vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn khiến cho nhu cầu vốn cũng có phần hạn chế.

4.2 Kết quả nghiên cứu


4.2.1 Kết quả phân tích thống kê mô tả


Những đặc điểm của mẫu dữ liệu nghiên cứu được thể hiện ở bảng sau:


Bảng 4.3: Đặc điểm của các biến trong mô hình


Biến

Số quan

sát

Giá trị

trung bình

Độ lệch

chuẩn

Giá trị

nhỏ nhất

Giá trị

lớn nhất

ROAA

276

0.0104142

0.0076087

0.0000986

0.0554257

ROAE

276

0.1084729

0.0753975

0.0006794

0.4449051

size

276

13.82273

0.6224318

11.91764

15.08001

adequacy

276

0.1041451

0.0591877

0.0349757

0.4625961

crisk

276

0.0124178

0.0069201

0

0.0388531

efficiency

276

0.4849058

0.1509437

0.1510339

0.9273792

lrisk

276

0.9173515

0.2663238

0.3718736

2.517692

busmix

276

0.0073727

0.0061789

-0.0058619

0.0444953

hhi

276

0.1093657

0.0201333

0.0910053

0.1635001

inflation

276

8.341667

6.243289

0.6

23.1

growth

276

6.175

0.6244634

5.2

7.1

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Nguyễn Xuân Hoàng - 8

Nguồn: Kết quả phân tích mẫu dữ liệu nghiên cứu từ phần mềm Stata 12 (phụ lục 1)


Biến ROAA và ROAE đại diện khả năng sinh lời của các NHTM:



25.00%



19.22%


20.00%


17.55%


15.79% 16.27% 16.52%








15.00%






9.99%


8.46%


8.42%


8.61%


9.80%

12.72%


10.00%



5.00%


1.03%

1.20%


1.01%

1.15%

1.14%

1.17%


0.75%


0.67%


0.64%


0.60%


0.64%


0.77%


0.00%

2006

2007

2008

2009

2010


ROAA

2011

2012


ROAE

2013

2014

2015

2016

2017

Hình 4.6: Khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006 – 2017


Nguồn: Tính toán của tác giả từ BCTC của 23 NHTM trong mẫu nghiên cứu


Biến ROAA có giá trị trung bình là 1,04% với độ lệch chuẩn là 0,76%, khoảng biến thiên lớn từ 0,01% đến 5,54% cho thấy sự chênh lệch lớn về khả năng sinh lời giữa các NHTM.

Biến ROAE có giá trị trung bình là 10,85% với độ lệch chuẩn là 7,54%, khoảng biến thiên lớn từ 0,07% đến 44,49% cho thấy sự không tương đồng về hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu giữa các NHTM.

Khả năng sinh lời các NHTM đạt con số tăng trưởng khá ấn tượng trong năm 2006, 2007. Chỉ số ROAE bình quân năm 2006 của mẫu ghi nhận mức tăng cao là 19.22%, mặc dù chỉ số này có phần sụt giảm trong năm 2007 nhưng vẫn duy trì ở mức cao là 17.55%. Trong khi đó, chỉ số ROAA đạt mức lớn hơn 1% là 1.03% năm 2006 và tăng lên tới 1.20% trong năm 2007.

Đến năm 2008, hoạt động tín dụng bị thu hẹp một cách đáng kể do NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Tổng tín dụng toàn hệ thống chỉ tăng 25.43%,


giảm hơn một nửa so với tốc độ tăng trưởng năm trước đó. Điều này đã tác động rất lớn đến thu nhập của các ngân hàng thương mại. Như đã đề cập ở trên, thu nhập lãi từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng khá lớn trong danh mục thu nhập của ngành ngân hàng. Trong bối cảnh các NHTM chủ yếu chỉ thực hiện các nghiệp vụ truyền thống như huy động, cho vay, tín dụng giảm là một trong những nguyên nhân chủ chốt kéo theo khoản mục thu nhập lãi sụt giảm đáng kể, kết quả là lợi nhuận sau thuế ngành ngân hàng cũng giảm theo. Chỉ số ROAE bình quân đã giảm mạnh xuống còn 13.38%, chỉ số ROAA cũng giảm xuống còn 1.01% từ mức 1.20% năm 2007.

Từ năm 2009 – 2011, chỉ số ROAE bình quân có phần cải thiện và trở lại xu hướng tăng nhẹ và duy trì ở mức 16.5% trong năm 2011, chỉ số ROAA cũng diễn biến tương tự khi tăng nhẹ và dao động từ 1.14% đến 1.17%. Chỉ số ROAE và ROAA bình quân quay lại xu hướng giảm trong những năm 2012 – 2014. Trong đó chỉ số ROAE giảm xuống còn 8.42%, chỉ số ROAA giảm xuống còn 0.64%. Cả hai chỉ số đã tăng trở lại trong những năm gần đây từ 2015 đến 2017.

8,000

7,000

6,000

5,000

4,000

3,000

2,000

1,000

0

7,590

60%

48%

6,358

50%

5,403

35%

33%

36%

4,610

40%

19% 2,142

1,359 1,616

2,906

3,428 3,617

18%

4,016

30%

17%

18%

19%

11%

15%

20%

916

6%

10%

0%

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

Tổng Tài sản Tốc độ tăng trưởng tài sản

Nghìn tỷ đồng

Biến size đại điện quy mô NHTM:


Hình 4.7: Tốc độ tăng trưởng tài sản các NHTM giai đoạn 2006 – 2017


Nguồn: Tính toán của tác giả từ BCTC của 23 NHTM trong mẫu nghiên cứu


Biến size có giá trị trung bình 13,82 với độ lệch chuẩn 0,62, khoảng biến thiên lớn từ 11,92 đến 15,08 cho thấy sự không tương đồng về quy mô tổng tài sản giữa các NHTM.

Quy mô tài sản ngành ngân hàng đã mở rộng khá ấn tượng trong những năm vừa qua. Trong giai đoạn 2006 – 2017, xét số liệu mẫu 23 NHTM, tổng tài sản các ngân hàng đã tăng gấp 7 lần từ mức 916 nghìn tỷ trong lên mức 7,590 nghìn tỷ. Tốc độ tăng trưởng tài sản bình quân hàng năm là 22% và tốc độ tăng trưởng lũy kế trong giai đoạn trên là 21%.

Năm 2007 ngành ngân hàng chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ quy mô tổng tài sản với tốc độ tăng đến 48% so với năm trước đó. Kinh tế trong nước tăng trưởng mạnh mẽ, hoạt động huy động và cho vay đều tăng trưởng đáng kể, dẫn đến quy mô tổng tài sản tăng mạnh.

Đến năm 2008, tốc độ tăng quy mô tài sản chững lại do ngành ngân hàng chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và các chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN. Quy mô tổng tài sản vẫn tăng nhưng với tốc độ khá khiêm tốn chỉ ở mức 19%, rất thấp so với mức tăng 48% trong năm trước đó.

Biến động quy mô tổng tài sản cũng tương tự như diễn biến tăng trưởng hoạt động tín dụng. Trong 2 năm tiếp theo là 2009 – 2010, quy mô tổng tài sản tăng trưởng mạnh trở lại do chính sách nới lỏng tiền tệ dẫn đến tín dụng tăng trưởng. Mặc dù tốc độ tăng tài sản ngân hàng những năm tiếp theo có xu hướng tăng chậm lại nhưng tốc độ tăng duy trì khá ổn định từ mức 11% - 19% trong giai đoạn 2013 – 2017. Lúc này số dư tổng tài sản ngành ngân hàng đã tăng đáng kể lên trên 4,000 nghìn tỷ đồng trong năm 2013, quy mô tài sản tăng mạnh về số dư, do đó dù tốc độ tăng trưởng có chậm lại nhưng vẫn duy trì mức tăng ổn định, quy mô tài sản ngân hàng vẫn có những chuyển biến tăng tích cực.


Biến adequacy đại điện mức độ an toàn vốn đo lường bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản:


10.0%


9.0%


8.0%

7.4%

7.7%

7.8%

8.0%

7.0%

7.0%

7.2%

7.2%

7.0%

6.8%

6.0%

6.2%

5.9%

6.0%


5.0%


4.0%


3.0%


2.0%

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017


Hình 4.8: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản các NHTM trong giai đoạn 2006 – 2017

Nguồn: Tính toán của tác giả từ BCTC của 23 NHTM trong mẫu nghiên cứu


Biến adequacy có giá trị trung bình 10,41% với độ lệch chuẩn 5,92%, khoảng biến thiên lớn từ 3,50% đến 46,26% cho thấy sự khác biệt lớn về tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản giữa các NHTM.

“Sản phẩm” kinh doanh chính của ngành ngân hàng là tiền tệ, do đó cấu trúc vốn của ngành ngân hàng có tính chất đặc thù hơn các ngành khác. Cụ thể vốn chủ sở hữu chỉ chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn trong tổng tài sản, tỷ lệ đòn bẩy của ngành ngân hàng khá cao. Trong giai đoạn 2006 – 2017, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (tỷ lệ EA) chỉ biến động quanh vùng từ 5.9% - 8.0%. Mặc dù các ngân hàng đã liên tục tăng vốn để đáp ứng vốn đủ theo quy định của NHNN, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu vẫn không theo kịp tốc độ tăng trưởng tài sản. Những năm gần đây tỷ lệ EA đang có xu hướng sụt giảm, từ mức cao nhất 8.0% trong năm


2013 tỷ lệ EA giảm dần xuống còn 5.9% trong năm 2017. Các NHTM vẫn đang nỗ lực tăng vốn theo các kế hoạch đã được thông qua. Với việc áp dụng các quy định của Basel trong đó có chỉ tiêu an toàn vốn, các ngân hàng buộc phải gấp rút cải thiện vốn chủ sở hữu để đáp ứng.

Biến crisk đại điện rủi ro tín dụng:


2.7%


2.2%

2.1%

1.9%

1.9%

2.1%

1.9%

1.7% 1.7%

1.7%

1.4%

1.4% 1.3%

1.2%

1.0%

1.0%

0.7%


0.2%

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

Hình 4.9: Tỷ lệ dự phòng trên tổng dư nợ các NHTM giai đoạn 2006– 2017


Nguồn: Tính toán của tác giả từ BCTC của 23 NHTM trong mẫu nghiên cứu


Biến crisk có giá trị trung bình 1,24% với độ lệch chuẩn 0,69%, khoảng biến thiên lớn từ 0,00% đến 3,89% cho thấy sự không tương đồng về rủi ro tín dụng giữa các NHTM.

Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ tín dụng tăng mạnh trong năm 2008 lên 1.9% từ mức 1% trong năm trước đó. Có thể nói năm 2007 – 2008 đánh dấu bước ngoặc thay đổi lớn trong ngành ngân hàng. Nếu như năm 2007 tất cả các chỉ tiêu tài chính của ngành ngân hàng đều tăng trưởng đầy triển vọng và khả quan, thì năm 2008 các chỉ tiêu đều quay đầu giảm mạnh do chịu ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính và chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN do những bất ổn kinh tế trong nước.


Sau khi sụt giảm nhẹ xuống 1.7% trong năm 2009, tỷ lệ dự phòng trên tổng dư nợ đều tăng trong 3 năm tiếp theo 2010 – 2012 lên 2.1%, tỷ số này đã điều chỉnh giảm dần trong những năm sau đó từ mức 1.9% trong năm 2013 xuống 1.3% trong năm 2017. Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ tín dụng giảm dần đều kể từ năm 2012 trở lại đây chưa hẳn xuất phát hoàn toàn từ chất lượng tín dụng được cải thiện mà một phần do các khoản nợ xấu đã được bán cho công ty Quản lý Tài sản của TCTD Việt Nam (VAMC).

Ngày 26/07/2013, NHNN đã ban hành Quyết định số 1459/QĐ-NHNN về việc thành lập công ty VAMC với mục đích xử lý nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế. Trong giai đoạn 2013 – 2017 VAMC đã thực hiện mua 307,386 tỷ đồng nợ xấu bằng Trái phiếu đặc biệt. VAMC không chi trả bất cứ khoản tiền nào khi mua nợ xấu của các ngân hàng, mà thay vào đó chỉ là phát hành các trái phiếu đặc biệt cho các ngân hàng. Bản chất của việc bán nợ xấu cho VAMC chỉ là chuyển đổi khoản mục nợ xấu trên bảng cân đối kế toán thành các khoản mục trái phiếu chuyển đổi VAMC, hoạt động này chỉ làm cho báo cáo tài chính của ngành ngân hàng trở nên ‘sạch và đẹp hơn” với tỷ lệ nợ xấu đã được điều chỉnh giảm đáng kể, tuy nhiên thực tế là nợ xấu vẫn chưa được giải quyết triệt để từ hoạt động bán nợ mà chỉ chuyển đổi từ số dư cho vay sang số dư trái phiếu đặc biệt. Tuy nhiên, NHNN cũng đã ban hành quy định mỗi năm các TCTD phải trích lập dự phòng 20% tổng mệnh giá trái phiếu đặc biệt của năm trước đó. Hay nói cách khác các ngân hàng sẽ mất 5 năm để trích lập đủ dự phòng cho các khoản nợ xấu trường hợp không thu hồi được từ khách hàng. Áp lực tài chính sẽ đè nặng lên ngành ngân hàng trong 5 năm kể từ thời điểm bán nợ do chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng lên. Tuy nhiên nếu những năm sau đó nếu khách hàng trả được nợ thì lúc này lợi nhuận ngân hàng sẽ cải thiện mạnh mẽ do vừa được hoàn nhập dự phòng, vừa tăng lợi nhuận khác khi khách hàng trả gốc và lãi.


Biến efficiency đại điện hiệu quả quản lý:


55%

52%

50%

49%

50%

48%

49%

45%

45%

44%

45%

43%

40%

39%

37%

35%

30%

30%


25%


20%

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

Hình 4.10: Tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng thu nhập hoạt động (CIR) các NHTM giai đoạn 2006 – 2017

Nguồn: Tính toán của tác giả từ BCTC của 23 NHTM trong mẫu nghiên cứu


Biến efficiency có giá trị trung bình 48,49% với độ lệch chuẩn 15,09%, khoảng biến thiên lớn từ 15,10% đến 92,74% cho thấy sự khác biệt lớn về hiệu quả quản lý giữa các NHTM.

Hiệu quả quản lý được tính bằng tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng thu nhập hoạt động (tỷ lệ CIR). Tỷ lệ CIR đạt mức 37% trong năm 2006, nhưng sau đó giảm khá mạnh xuống mức 30% trong năm 2007 do lợi nhuận tăng vọt. Kinh tế tăng trưởng ấn tượng với hoạt động tín dụng được đẩy mạnh tăng gấp nhiều lần so với các năm trước đó, kết quả thu nhập cải thiện khá tốt. Tuy nhiên, những năm sau đó tỷ lệ CIR bắt đầu xu hướng tăng mạnh lên quanh mức 45% trong giai đoạn 2008 – 2011. Tỷ lệ CIR tiếp tục xu hướng tăng mạnh và tiến về quanh mức 50% trong thời gian 2012 – 2016.

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 07/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí