Điều Khoản Chủ Yếu Của Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế

Quan điểm thứ hai: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được ký kết dưới hình thức văn bản. Nhưng nước nêu ra quan điểm này là một số nước có nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam. Điều 27 khoản 2 Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng các hình thức có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị pháp lý tương đương ở đây bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật [21, Điều 3, Khoản 15].

Sự bất đồng này làm cho Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải lựa chọn sự dung hòa bằng cách đưa vào Công ước những quy định theo hướng công nhận cả hai điều khoản liên quan đến hình thức của hợp đồng. Điều 11 của Công ước quy định rằng: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được ký kết bằng lời nói và không cần thiết phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu nào khác về mặt hình thức của hợp đồng. Còn Điều 96 thì lại cho phép các quốc gia bảo lưu, không áp dụng Điều 11 trên nếu luật pháp của quốc gia đó quy định hình thức văn bản là bắt buộc đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều này có nghĩa là, nếu Việt Nam tham gia vào Công ước Viên thì Việt Nam được quyền bảo lưu không áp dụng Điều 11 của Công ước vì pháp luật Việt Nam quy định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được ký kết bằng văn bản.

Lời khuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam là mọi hợp đồng mua bán ký với các đối tác nước ngoài phải được lập bằng văn bản. Ký bằng văn bản sẽ giúp các bên có được cơ sở đảm bảo nhất khi giải quyết các tranh chấp phát sinh. Ký bằng văn bản sẽ tạo điều kiện cho sự kiểm tra, giám sát thực hiện hợp đồng có hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, khi nói đến hình thức hợp đồng mua bán ngoại thương, cũng cần lưu ý đến cái gọi là “hình thức có giá trị pháp lý tương đương văn

bản” [21, Điều 3, Khoản 15]. Thực chất điều này nói về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký dưới dạng hợp đồng điện tử. Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu [20, Điều 33]. Nói cách khác, hợp đồng điện tử là hợp đồng được ký kết thông qua các phương tiện điện tử như thư điện tử, điện báo, fax, telex, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là pháp luật thương mại Việt Nam đã thừa nhận những hợp đồng ký bằng fax, thư điện tử...có giá trị pháp lý như ký bằng văn bản. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý rằng bên cạnh những tiện ích mà hợp đồng điện tử mang lại, các bên phải đối mặt với nhiều rủi ro về cả mặt kỹ thuật, thương mại, cũng như pháp lý.

Hợp đồng được hình thành khi đề nghị giao kết hợp đồng (thường được gửi dưới dạng đơn chào hàng) được chấp nhận. Đối với hợp đồng điện tử, các vấn đề có thể phát sinh khi một đơn chào hàng hoặc một sự chấp nhận bị mạo dan bởi một người nào đó không có thẩm quyền về mặt pháp lý. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp có thể nhận được đơn chào hàng hay đơn đặt hàng được ký bởi chữ ký không đảm bảo an toàn. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp cần có thư điện tử yêu cầu đối tác xác nhận thông tin đã nêu nhằm tránh các rủi ro có thể phát sinh.

Mặt khác, đối với hợp đồng điện tử, vấn đề về lưu trữ chữ ký điện tử cũng là vấn đề phức tạp. Doanh nghiệp sử dụng chữ ký điện tử cần phải có sự đảm bảo về việc bảo mật cho các chữ ký dạng này được lưu trữ trong các máy vi tính vì trong trường hợp bết kỳ, nếu một người nào đó tiếp cận được với chữ ký đó và dùng nó để ký hợp đồng thì doanh nghiệp không còn cách nào khác buộc phải công nhận hiệu lực của hợp đồng. Và doanh nghiệp sẽ phải chịu các bất lợi cũng như các hệ lụy về sau.

Chính vì vậy, hình thức và cách giao kết hợp đồng rất quan trọng trong việc ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Là một trong những vấn

đề doanh nghiệp cần lưu tâm đầu tiên.

1.1.4. Nội dung Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa phản ánh các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong quan hệ mua bán hàng hóa. Do đó, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa trước hết là những điều khoản do các bên tự thỏa thuận. Tuy nhiên, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không chỉ là những điều khoản mà các bên đã thỏa thuận mà còn bao gồm những điều khoản không thỏa thuận nhưng theo quy định của pháp luật các bên có nghĩa vụ phải thực hiện.

Hợp đồng bắt buộc phải bao gồm những nội dung chủ yếu nào là tùy thuộc vào quy định của pháp luật từng quốc gia. Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng mua bán có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận các nội dung quan trọng của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện và phòng ngừa các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - 4

Theo Công ước Viên quy định thì nội dung chủ yếu của hợp đồng bao gồm: điều khoản về thanh toán, giá cả, chất lượng, số lượng, địa điểm và thời gian giao hàng, phạm vi trách nhiệm giữa các bên, bồi thường, giải quyết tranh chấp.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luật Thương mại năm 1997 [16] đưa ra bảy điều khoản chủ yếu của Hợp đồng mua bán hàng hóa: tên hàng, số lượng, quy cách phẩm chất, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng. Tuy nhiên, đến Luật Thương mại 2005 không quy định về nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo đó, cần phải tham chiếu đến Bộ luật Dân sự 2005 [18].

Bộ luật Dân sự 2005 quy định tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây: một là - đối tượng của hợp đồng là

tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm; hai là - số lượng, chất lượng; ba là - giá, phương thức thanh toán; bốn là - thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; Năm là, quyền, nghĩa vụ của các bên; sáu là

- trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Bảy là, phạt vi phạm hợp đồng và tám là các nội dung khác [21, Điều 402].

Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần phải tuân thủ các nội dung như sau:

1.1.4.1. Điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Điều khoản chủ yếu là những điều khoản nhất thiết phải có trong hợp đồng.Khi xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa bắt buộc các bên phải thỏa thuận và ghi vào văn bản hợp đồng.Như vậy điều khoản chủ yếu đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại của một hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận các nội dung:thời gian, địa điểm ký kết hợp đồng; chủ thể trong quan hệ hợp đồng; đối tượng của hợp đồng; giá cả và thanh toán; quyền và nghĩa vụ của các bên; bảo hành hàng hóa; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; các trường hợp miễn trách nhiệm pháp lí trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa; nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa; thỏa thuận trọng tài hoặc tòa án; điều kiện vận tải.

1.1.4.2. Điều khoản thường lệ của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Điều khoản thường lệ là những điều khoản mà nội dung của nó đã được quy định trong các văn bản pháp luật.Những điều khoản này các bên có thể đưa vào hợp đồng, hoặc cũng có thể không cần đưa vào hợp đồng.Nếu các bên không đưa những điều khoản này vào hợp đồng thì coi như các bên đã mặc nhiên công nhận.Nếu đã đưa vào hợp đồng nhằm tăng tầm quan trọng hoặc cụ thể hóa thì không được trái pháp luật.

1.1.4.3. Điều khoản tùy nghi của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Điều khoản tùy nghi là những điều khoản do các bên tự thỏa thuận với

nhau khi chưa có quy định của pháp luật hoặc có quy định của pháp luật nhưng các bên được phép vận dụng linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của các bên mà không trái quy định của pháp luật.Những điều khoản này chỉ trở thành nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa khi các bên trực tiếp thỏa thuận với nhau.

1.1.5. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Hợp đồng là “luật cao nhất” của hai bên (bên mua và bên bán), nếu trong hợp đồng quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ, dự kiến hết các tình huống có thể phát sinh thì không cần bất kỳ luật nào điều chỉnh. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, hợp đồng không thể điều chỉnh toàn bộ các mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ giữa các bên, cho bên cần có luật để điều chỉnh những quyền và nghĩa vụ chưa được quy định trong hợp đồng. Luật đó có thể là luật quốc gia hoặc pháp luật và điều ước quốc tế mà các nước ký kết hoặc tham gia.

1.1.5.1. Điều ước quốc tế

Để thúc đẩy lĩnh vực thương mại quốc tế phát triển, các nước đã soạn thỏa, đàm phán ký kết các điều ước quốc tế về thương mại để điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Có thể hiểu ngắn gọn rằng điều ước quốc tế về thương mại là những văn kiện pháp lý quốc tế do các chủ thể của luật quốc tế tham gia ký kết nhằm điều chỉnh các quan hệ thương mại phát sinh giữa các chủ thể đó. Tuy nhiên, không thể có một định nghĩa khoa học chính xác về khái niệm điều ước quốc tế nếu không bao quát toàn bộ mọi khía cạnh như chủ thể, nội dung, hình thức và bản chất của điều ước quốc tế.

Dưới góc độ khoa học, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm điều ước quốc tế về thương mại như sau:

Điều ước quốc tế về thương mại là những thỏa thuận bằng văn bản giữa các quốc gia có tính nguyên tắc pháp lý chung, quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt đồng thương mại giữa các quốc gia

trong phạm vi quốc tế. Điều ước quốc tế về thương mại có hai loại:

Loại thứ nhất, đề ra những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động thương mại, đặc biệt trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế. Những điều ước này có thể song phương hoặc đa phương, điều đó tùy thuộc vào sự ràng buộc lẫn nhau và sự phát triển kinh tế của mối quốc gia. Việc ký kết các hiệp định thương mại giữa hai hay nhiều quốc gia với nhau sẽ tạo một khuân khổ pháp luật, một hành lang pháp lý chặt chẽ cho việc buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia này.

Loại thứ hai, những điều ước quốc tế trực tiếp điều chỉnh quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của bên bán và bên mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Ví dụ, Công ước Viên 1980 quy định quyền và nghĩa vụ các bên, quy định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Loại điều ước này điều chỉnh trực tiếp nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, giúp cho các bên áp dụng trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Chẳng hạn, các bên có thể áp dụng Công ước Viên 1980 để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong trường hợp hợp đồng ký kết không quy định về luật áp dụng giải quyết tranh chấp.

Như vậy, điều ước quốc tế về thương mại đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động thương mại nói chung và hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Tuy nhiên, vai trò của nó còn phụ thuộc cụ thể vào từng loại điều ước quốc tế, nói cách khác, phụ thuộc vào giá trị pháp lý của từng loại điều ước. Đối với những điều ước quốc tế đã có hiệu lực thì chúng có giá trị bắt buộc đối với những nước ký kết hoặc tham gia. Trong số các điều ước quốc tế này có Công ước Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Công ước này là nguồn luật điều chỉnh đương nhiên của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Công ước này là nguồn luật điều chỉnh đương nhiên của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký kết giữa hai thương nhân của

các nước đã phê chuẩn hoặc tham gia Công ước. Điều này có nghĩa hai bên (bên mua và bên bán) của hợp đồng không có thỏa thuận gì về việc áp dụng Công ước này cho hợp đồng thì Công ước vẫn mặc nhiên được đem áp dụng cho hợp đồng đó.

Mặt khác, khi áp dụng điều ước quốc tế về mua bán hàng hóa cần phải chú trọng tính pháp lý của loại quy phạm pháp luật trong điều ước. Nếu đó là loại quy phạm pháp luật có tính chất mệnh lệnh, thì các bên của hợp đồng phải tuyệt đối chấp hành, nếu không tuân hủ hoặc làm sai các quy phạm mệnh lệnh thì những điều làm sai đó sẽ không có giá trị. Đối với loại quy phạm pháp luật có tính chất tùy nghi thì các bên có thể tuân theo hoặc không tuân theo, tức là có thế thỏa thuận khác đi trong hợp đồng so với quy phạm tùy nghi và những điểm thỏa thuận này khác này vẫn có giá trị.

Đối với loại điều ước quốc tế về thương mại mà quốc gia chưa ký kết hoặc chưa tham gia thì không có giá trị bắt buộc đối với chủ thể của quốc gia nước này. Nghĩa là điều ước này không phải là nguồn luật điều chỉnh đương nhiên của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký kết bởi thương nhân của nước không ký kết hoặc chưa tham gia điều ước. Tuy nhiên nếu trong hợp đồng các bên thuộc những nước không ký kết hoặc chưa tham gia điều ước thỏa thuận quy định áp dụng điều ước đó thì điều ước này vẫn trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng.

Cho đến nay, Việt Nam mới ký kết các Hiệp định thương mại với một số nước, trong đó quy định các nguyên tắc thương mại, các chế độ ưu đãi giành cho nhau hưởng, các nghĩa vụ mà hai nước phải thực hiện trong quan hệ thương mại với nhau. Hiện tại, không có một điều ước quốc tế nào trực tiếp điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên đương sự trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đang có hiệu lực đối với Việt Nam. Bởi lẽ, Việt Nam chưa gia nhập Công ước Lahaye 1964 và Công ước Viên 1980 về mua

bán hàng hóa quốc tế. Vì vậy, các thương nhân Việt Nam không bắt buộc phải tuân theo hai Công ước đó khi kết kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

1.1.5.2. Luật quốc gia

Luật quốc gia là một trong những nguồn luật quan trọng trong điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Trước hết, luật quốc gia của mỗi nước đều có các quy phạm pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa, cho nên khi áp dụng luật quốc gia phải áp dụng các quy phạm pháp luật này. Trong luật các nước đều có quy định rằng: các bên của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể lựa chọn luật nước mình hoặc luật nước ngoài để áp dụng cho hợp đồng. Điều này có nghĩa, luật mỗi nước đều cho phép thương nhân nước mình quyền lựa chọn một luật quốc gia để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Có nước cho phép chọn bất kỳ luật quốc gia nào, không đặt ra điều kiện gì, có nước đặt ra điều kiện nhất định khi chọn luật quốc gia khác. Ví dụ, luật Thương mại Việt Nam đưa ra điều kiện: luật nước ngoài được chọn phải không được trái với luật Việt Nam.

Việc chọn luật của nước nào để áp dụng là do các bên thỏa thuận và quyết định. Tuy nhiên, trong thực tế việc lựa chọn luật nước nào còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau. Có bên dựa vào thế mạnh của mình, có bên thì phụ thuộc vào hiểu biết của mình và cũng có không ít trường hợp do thế yếu hơn nên để cho bạn hàng sắp đặt. Thông thường, khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, bên nào cũng muốn áp dụng luật của chính nước mình, vì vậy, nếu hai bên không có sự nhượng bộ nhau thì việc ký kết hợp đồng sẽ khó có thể thực hiện được. Trong một số trường hợp, các bên có thể đưa ra luật của một nước thứ ba. Chính vì vậy, luật của một quốc gia sẽ được đem áp dụng giải quyết các tranh chấp trong mua bán hàng hóa quốc tế khi:

Thứ nhất, các bên ký kết hợp đồng có thỏa thuận đưa vấn đề này thành

Xem tất cả 111 trang.

Ngày đăng: 05/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí