Bất Khả Kháng – Căn Cứ Miễn Trách Nhiệm Của Vi Phạm Hợp Đồng

khả kháng cần:

Gửi đến bên kia thông báo bằng văn bản (fax, telegraph, email, điện tín, thư bảo đảm,…) về sự kiện bất khả kháng trong thời hạn hợp đồng hoặc luật áp dụng quy định nếu không có quy định thì trong một thời gian hợp lý.

Kèm theo thông báo là văn bản chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc tài liệu, chứng cứ hợp pháp khác có giá trị chứng minh. Nếu một bên gửi cho bên kia một thông báo về sự kiện bất khả kháng mà không có tài liệu chứng minh thì chắc chắn sẽ không được chấp nhận. Vì vậy việc chuẩn bị các chứng cứ để được hưởng miễn trừ trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng là rất cần thiết.

1.2.5. Hậu quả của tình huống bất khả kháng

Công ước Viên 1980 cũng như pháp luật của các nước đều có quy định về bất khả kháng, nhưng trong thực tế khi gặp bất khả kháng xảy ra thì sẽ có các hậu quả sau:

Hậu quả thứ nhất, chấm dứt các quan hệ hợp đồng giữa hai bên.Đây là trường hợp bất khả kháng xảy ra và tổn tại trong một thời gian khá dài làm cho việc thực hiện hợp đồng không còn ý nghĩa đối với một hoặc cả hai bên hoặc hậu quả của bất khả kháng là rất nghiêm trọng.Chẳng hạn, người bán đã bị tổn thất rất nặng nề kể cả toàn bộ lô hàng đã được chuẩn bị để giao nhưng cũng bị tổn thất hết, sau đó người bán không còn cách nào để có hàng giao cho người mua nữa.

Hậu quả thứ hai, kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tương ứng với thời gian tổn tại bất khả kháng. Điều này có thể được lý giải như sau: khi một nhà kinh doanh ký kết hợp đồng mua bán hang hóa, thì họ đã có những kế hoạch riêng của mình và chờ đợi thu được lợi nhuận thông qua việc thực hiện hợp đồng. Nếu hợp đồng không thực hiện được, người bán không tiêu thụ được hàng, các chi phí đã bỏ ra không thu hồi được (do người mua

cũng không có lỗi). Còn người mua không có hàng để thực hiện tiếp các dự đính của mình, giao hàng cho một hệ thống bán hàng trong nước hay xuất khẩu sang tiếp một nước thứ ba.

Như vậy, việc không thực hiện nghĩa vụ, dù không do lỗi của ai đi nữa cũng có thể mang lại thiệt hại lớn cho các bên. Cho nên, trong thực tiễn thương mại quốc tế người ta đã rút ra kết luận là: thà được thực hiện chậm còn hơn là không có. Tuy nhiên, việc đó còn phụ thuộc vào thời gian tồn tại của bất khả kháng. Các yếu tố thiên tai như bão, lũ lụt rồi cũng phải ngừng. Các cuộc đình công hoặc bất ổn định xã hội, bằng cách này hay cách khác sẽ chấm dứt. Ngay cả những chính sách của Chính phủ khi là một sự kiện bất khả kháng thi do tính chất bất ngờ không lường trước được của nó thường là các biện pháp khẩn cấp mang tính chất “chữa cháy” trong từng thời điểm cũng phải dừng.

Ví dụ, Việt Nam cấm xuất khẩu gạo để ổn định tình hình thị trường trong nước, một số nước nghèo cấm thanh toán ngoại tệ ra bên ngoài để ổn định cán cân thanh toán.Khi các điều kiện kinh tế chính trị thay đổi, các chính sách đó không còn phù hợp nữa thì nó sẽ bị bãi bỏ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

Tất nhiên, dù cho sự kiện bất khả kháng có kết thúc thì cũng cần một thời gian nhất định tùy theo từng tường hợp cụ thể. Nhưng việc đi tìm một đối tác mới rồi thương lượng để lập ra một hợp đồng cũng tốn không ít thời gian.Hơn nữa, trong nhiều trường hợp thì sự kiện bất khả kháng tác động đến cả một ngành sản xuất hay một vùng địa lý rộng lớn.Khi đó không chỉ đối tác trong hợp đồng của mình mà ngay cả các nhà xuất khẩu khác cùng rơi vào khó khăn tương tự.

Ví dụ, có sương giá ở Braxin, thì có thể tất cả các nhà sản xuất cà phê ở nước này đều bị mất mùa.Như vậy, việc tìm kiếm một bạn hàng mới đôi khi trở thành việc không thể thực hiện.Nên tốt hơn là chờ đợi một thời gian để

Các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - 7

tiếp tục thực hiện hợp đồng sau khi sự kiện bất khả kháng kết thúc.

Việc chờ đợi này do hai bên thỏa thuận với nhau còn Công ước Viên 1980 không quy định. Thời gian diễn ra sự kiện này sẽ không được tính vào thời gian thực hiện hợp đồng.Nói cách khác là thời hạn thực hiện này sẽ kéo dài ra một khoảng thời gian bằng thời gian diễn ra sự kiện bất khả kháng đó.

Ví dụ, trong một hợp đồng mua bán giữa một doanh nghiệp Pháp và một doanh nghiệp của Angieri, điều khoản bất khả kháng quy định: các nghĩa vụ bị ảnh hưởng của bất khả kháng sẽ tự động được kéo dài một thời gian tương ứng với sự chậm trễ do trường hợp bất khả kháng gây ra, việc kéo dài thực hiện đó không dẫn đến phạt bên bị ngăn cản phải thống nhất với bên kia, có biện pháp hữu hiệu để tiếp tục thực hiện nghĩa vụ sau khi bất khả kháng kết thúc. Tuy nhiên, kéo dài việc thực hiện hợp đồng tương ứng với thời gian của sự kiện bất khả kháng mà không quy định kèm theo một biện pháp bảo đảm gì cũng mang lại một sự bất trắc lớn cho các bên.

Như đã nói ở trên, các bên ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán là dựa trên các căn cứ, điều kiện cụ thể. Khi các điều kiện thay đổi kế hoạch cũng phải thay đổi theo. Cho nên loại trừ các hợp đồng mà việc thực hiện cũng như mục đích của nó là nằm trong một chương trình dài hạn như các hợp đồng mua bán máy móc thiết bị toàn bộ.Các hợp đồng khác như các hợp đồng phục vụ cho mục đích thương mại. Mua để bán lại cho một bạn hàng khác thu lợi nhuận chênh lệch, hay các nhu cầu cấp bách như nhập khẩu nhu yếu phẩm. Việc kéo dài thời gian của các dạng hợp đồng nêu trên, qua một mức nào đó trở nên không còn ý nghĩa.

Ví dụ, giá hàng trong nước đã giảm, nếu nhận được hàng thì sẽ lỗ vốn. Trên cơ sở phân tích như vậy, các bên thường đề ra một thời hạn bổ sung nhất định cho việc thực hiện nghĩa vụ, còn sau đó thì dành lại cho mình quyền quyết định về số phận hợp đồng. Chẳng hạn, nếu tác động của sự kiến bất khả

kháng tiếp tục kéo dài hơn một trăm hai mươi ngày liên tục thì các bên sẽ giải quyết vấn đề thực hiện tiếp hợp đồng thông qua thương lượng đàm phán sớm nhất có thể. Quy định này giúp cho các bên có thể tránh được việc hợp đồng kéo dài một cách vô tận hay là vô lý và tuy theo hoàn cảnh mà quyết định về tương lại của hợp đồng. Tuy nhiên, như vậy thì quyết định cuối cùng vẫn còn có sự thống nhất ý chí giữa hai bên. Nếu hai bên không đồng ý thì được quyền đơn phương tuyên hủy hợp đồng mà không phải chịu trách nhiệm gì.

1.2.6. Bất khả kháng – căn cứ miễn trách nhiệm của vi phạm hợp đồng

Hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới và các văn bản pháp lí quốc tế đều thừa nhận bất khả kháng là một trong những trường hợp loại trừ trách nhiệm hợp đồng.Mặc dù nội hàm của khái niệm bất khả kháng ở các hệ thống pháp luật có sự khác nhau nhất định.

Theo quy định tại Công ước Viên 1980 thì: một bên kết ước không chịu trách nhiệm về sự kiện không thực hiện bất kì nghĩa vụ nào của mình nếu họ chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lí rằng họ phải tính đến trở ngại đó vào lúc kí kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục được hậu quả của nó [12, Điều 79, Khoản 1].

Theo quy định tại Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại 2004 thì: bên có nghĩa vụ được miễn trừ hậu quả do việc không thực hiện của bên mình, nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện là do một trở ngại vượt khỏi tầm kiểm soát và không thể mong chờ một cách hợp lí ở mình xem xét được những trở ngại này vào thời điểm giao kết hợp đồng, dự đoán hay vượt qua được trở ngại hoặc dự đoán hay vượt qua được hậu quả của trở ngại đó [27, Điều 7.1.7].

Còn theo quy định tại Bộ luật Dân Sự Việt Nam 2005 thì: sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể thấy trước được

và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép [18, Điều 161]. Và theo quy định tại Luật Thương Mại Việt Nam 2005 thì: bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm khi xảy ra sự kiện bất khả kháng [18, Điều 294, Khoản 1].

Như vậy, mặc dù có sự khác nhau trong việc sử dụng ngôn từ và cách thức diễn đạt nhưng các quy định trên đây đều dẫn đến một chung cục: bên vi phạm hợp đồng sẽ miễn trách nhiệm khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, đó là sự kiện xảy ra ngoài tầm kiểm soát của các bên, các bên không thể lường trước được nó hay dự đoán được nó vào lúc giao kết hợp đồng và khi nó xảy ra thì không thể nào tránh được hay khắc phục được nó.

Như vậy, bất khả kháng, trước hết phải là một sự kiện khách quan xảy ra ngoài ý chí của các bên và vượt ra khỏi tầm kiểm soát của các bên, đó có thể là các sự kiện tự nhiên như thiên tai, hỏa hoạn hoặc là các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây thì sự kiện đó chưa đủ để làm căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ. Theo các quy định pháp lí nói trên, trở ngại khách quan vượt khỏi tầm kiểm soát của các bên chỉ trở thành sự kiện bất khả kháng – căn cứ miễn trách nhiệm, khi chứa đựng đầy đủ các yếu tố sau:

Thứ nhất, đó phải là tình huống mà các bên không thể nhìn thấy trước hoặc dự đoán trước vào thời điểm giao kết hợp đồng và phải xảy ra sau khi kí kết hợp đồng. Nếu sự kiện khách quan gây khó khăn cho việc thực hiện hợp đồng có thể nhìn thấy trước hay dự đoán trước hoặc đã xảy ra thì phải coi là bên vi phạm nghĩa vụ đã tiếp nhận gánh chịu rủi ro về trở ngại phát sinh mà không được coi là sự kiện bất khả kháng.

Thứ hai, đó phải là sự kiện không thể khắc phục, tức là sự kiện xảy ra phải làm cho nghĩa vụ trở nên không thể thực hiện được trong một khoảng thời gian nhất định. Việc không thể thực hiện được nghĩa vụ phải có tính chất

tuyệt đối (absolument impossible). Nếu sự kiện xảy ra chỉ làm cho việc thực hiện nghĩa vụ trở nên khó khăn hơn hay đòi hỏi nhiều chi phí hơn thì không đủ căn cứ để miễn trách nhiệm. Vì thế, những khó khăn trở ngại rất đáng kể như hoạt động quân sự làm gián đoạn việc cung cấp và chuyên chở hàng hóa, những cuộc đình công làm đình trệ sản xuất cũng không đương nhiên được coi là các căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ.

Thứ ba, để đươc coi là một căn cứ miễn trách nhiệm, thì sự kiện bất khả kháng phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hành vi vi phạm hợp đồng. Do vậy, việc chứng minh của bên gặp bất khả kháng sẽ gồm 2 điểm: sự tồn tại của trường hợp bất khả kháng và quan hệ nhân quả giữa nó và hành vi vi phạm hợp đồng. Do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được tiến hành ký kết và thực hiện giữa các thương nhân ở các nước khác nhau, thậm chí ở rất xa nhau. Cho nên, để tránh việc một bên đưa ra các sự kiện minh chứng giả tạo, người ta đòi họ phải đưa ra được các bằng chứng xác thực.Công ước Viên năm 1980 không quy định các biện pháp, cách thức chứng minh cho trường hợp gặp bất khả kháng.Còn trong thực tiễn thì các bên thường quy định trong hợp đồng về việc chứng minh bất khả kháng là một giấy chứng nhận của Phòng thương mại tại quốc gia nơi xảy ra sự kiện hoặc là xác nhận của một cơ quan nào đó có thẩm quyền của Nhà nước.

Ví dụ, năm 1993, công ty Vegetexco của Việt Nam, có ký một hợp đồng xuất khẩu đưa sang Nga trong vụ đông xuân. Bên người mua đã ứng trước tiền hang bằng phân bón, xăng dầu. Các vùng trồng dưa đã triển khai đúng tiến độ, cây phát triển tốt cho thấy triển vọng được mùa. Thế nhưng, trước khi thu hoặc một tháng, miền Bắc bị một đợt sương muối nặng, cây bị tát hết lá, nhiều quả non bị rụng. Miền trung là vùng trồng dưa lớn thứ hai thì bị bão sớm đổ bộ làm hư hỏng gần hết.Kết quả là trong năm đó Vegetexco chỉ thực hiện được 65% hợp đồng đã ký. Để được miễn trách nhiệm trong trường

hợp này, Công ty đã phải xin Giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân các tỉnh, huyện, xã bị thiên tai, xin Giấy chứng nhận của Tổng cục khí tượng thủy văn và giấy chứng nhận bất khả kháng của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Trước các bằng chứng xác thực của công ty, bạn hàng của Nga đã chấp nhận, coi đầy là trường hợp bất khả kháng, không bắt công ty Vegetexco bồi thường và tiếp tục hợp đồng đã ký trong các năm sau.

Thứ tư, bên vi phạm nghĩa vụ phải thông báo cho bên có quyền biết về sự hiện diện của sự kiện bất khả kháng. Khoản 4 điều 79 Công ước Viên 1980, khoản 3 điều 7.1.7 Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 đều quy định: bên có nghĩa vụ phải thông báo cho bên có quyền về sự tồn tại của trở ngại và ảnh hưởng của chúng đối với khả năng thực hiện của mình. Nếu thông báo không đến tay người nhận trong khoảng thời gian hợp lí kể từ khi bên có nghĩa vụ biết hoặc buộc phải biết về trở ngại, bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại gây ra do không nhận được thông báo như vậy.

Theo quy định tại điều 295 Luật Thương mại Việt Nam 2005 thì: bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt bên vi phạm phải thông báo ngay cho bên kia biết, nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. Có thể nói rằng việc quy định về nghĩa vụ thông báo của bên vi phạm hợp đồng là hoàn toàn hợp lí, vì lẽ nếu bên vi phạm nghĩa vụ đã biết hoặc phải biết về những trở ngại khách quan ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ của mình mà không thông báo cho bên có quyền biết, điều đó có nghĩa là bên vi phạm nghĩa vụ đã không quan tâm đến những trở ngại đó, và không coi đó là sự kiện bất khả kháng.Chính vì vậy, trong trường hợp này, những trở ngại khách quan không được coi là sự kiện

bất khả kháng, không là căn cứ loại trừ trách nhiệm cho bên vi phạm nghĩa vụ là hoàn toàn xác đáng. Hơn nữa trong trường hợp này còn cho phép chúng ta suy luận rằng việc bên vi phạm nghĩa vụ không thông báo cũng đồng nghĩa họ có khả năng thực hiện hợp đồng.

Thực ra, về việc vi phạm nghĩa vụ thông báo hiện nay đang tồn tại hai quan điểm:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu người gặp phải sự kiện bất khả kháng không thông báo cho bên kia biết trong một thời gian hợp lý thì họ sẽ mất quyền viện dẫn nó để làm căn cứ miễn trách nhiệm cho mình. Chẳng hạn, như điều kiện chung của Ủy ban kinh tế Châu Âu nêu rõ: “Người bán phải thông báo cho người mua bằng điện tín hay thư, tùy theo từng loại hang, nếu không họ sẽ mất quyền viện dẫn sự kiện biện minh, trừ khi họ không thể thông báo được”.

Quan điểm thứ hai và hiện nay đang ngày càng được áp dụng nhiều hơn, đó là nếu không thông báo kịp thời thì bên gặp bất khả kháng sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thời toàn bộ thiệt hại do việc không thông báo kịp thời đó gây ra, nhưng vẫn được quyền viện dẫn đến sự kiện bất khả kháng làm căn cứ miễn trách nhiệm. Điển hình cho quan điểm này là Công ước Viên năm 1980 như vừa nêu trên. Quan điểm này theo chúng tôi là hợp lý. Bởi vì việc thông báo bất khả kháng là một nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc theo pháp luật quy định cho nên vi phạm nghĩa vụ thông báo sẽ phải chịu trách nhiệm về hậu quả do việc vi phạm đó gây ra. Còn việc miễn trách nhiệm do gặp bất khả kháng vẫn phải được thừa nhận.

Tóm lại, hầu hết mọi hệ thống luật pháp trên thế giới đều công nhận rằng bất khả kháng là một căn cứ để miễn trách nhiệm vi phạm hợp đồng của các bên. Nếu như điều khoản về trách nhiệm được coi là “chốt chặn cuối cùngđể bên có quyền có thể bảo vệ được lợi ích của mình khi có sự

Xem tất cả 111 trang.

Ngày đăng: 05/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí