Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, định nghĩa về hợp đồng mua bán ngoại thương chưa được hiểu một cách thống nhất. HĐMBHH giữa Việt Nam với nước ngoài được gọi với nhiều tên khác nhau như: “ Hợp đồng ngoại thương”; “ HĐMBHH với thương nhân nước ngoài”…. Định nghĩa “ Hợp đồng mua bán ngoại thương” (HĐMBNT) đã được quy định lần đầu tiên tại Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK ngày 31/7/1991 của Bộ Thương nghiệp (nay là Bộ công thương) hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và định nghĩa: “Hợp đồng mua bán ngoại thương là HĐMBHH giữa các bên có quốc tịch khác nhau, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được chuyển từ nước này sang nước khác và đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với cả hai bên”. Luật Thương mại 1997 quy định “HĐMBHH với thương nhân nước ngoài là HĐMBHH được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt nam với một bên là thương nhân nước ngoài”. Theo định nghĩa này, tiêu chí quan trọng nhất để xác định HĐMBHH với thương nhân nước ngoài là yếu tố quốc tịch khác nhau của các bên (bên mua và bên bán); một bên mang quốc tịch Việt nam, còn bên kia mang quốc tịch nước ngoài. Định nghĩa “ HĐMBHH với thương nhân nước ngoài” ở đây nên được hiểu với phạm vi rộng, bao gồm cả HĐMBHH trong nước và HĐMBHHQT.
Định nghĩa “ Hợp đồng mua bán ngoại thương” còn được đề cập tới trong nhiều sách, tạp chí, báo, giáo trình của một số trường đại học. Giáo trình “ Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” năm 1997 của Trường Đại học Ngoại thương [23, tr.100] định nghĩa: hợp đồng mua bán ngoài thương được hiểu là “ tất cả các hợp đồng mua bán được ký kết giữa các chủ thể của Việt Nam với các thể nhân ( tự nhiên nhân) và pháp nhân nước ngoài, hay nói cách khác là tất cả các hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế ( yếu tố nước ngoài).
Giáo trình “ Tư pháp quốc tế” năm 2004 của đại học quốc gia Hà nội [22, tr.143] định nghĩa: “ Hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng mua bán có yếu tố nước ngoài”. Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam có các định nghĩa về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế tại Đ i ề u 2 7 , 2 8 , 2 9 c ủ a L T M 2 0 0 5 [4 ,tr.8 - 9 ] , theo đó:
Mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.
Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá được định nghĩa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật;
Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”.
Tạm nhập, tái xuất hàng hóa là việc hàng hoá được đưa từ nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam.
Tạm xuất, tái nhập hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Vấn đề hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam - 1
- Vấn đề hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam - 2
- Các Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế
- Xung Đột Về Thời Điểm Hiệu Lực Của Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế
- Các Điều Ước Quốc Tế Về Giao Dịch Thương Mại, Hợp Đồng
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Cách định nghĩa trên cho thấy hợp đồng xuất hay nhập, tái xuất hay tái nhập hàng hóa đều phải được làm thủ tục xuất khẩu, hay nhập khẩu qua lãnh thổ Việt Nam. Hay nói cách khác hàng hóa phải được chuyển qua biên giới Việt nam để vào hoặc ra khỏi lãnh thổ của một nước khác (nước nhập khẩu hoặc một nước thứ ba) và yếu tố hàng hóa vận chuyển qua biên giới là đặc điểm để nhận biết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Hoạt động mua bán hàng hóa giữa Việt Nam với nước ngoài biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng có điểm chung là đều thuộc loại HĐMBHH trong phạm vi quốc tế, theo đó một bên của hợp đồng mua bán ngoại thương có trụ sở thương mại tại Việt Nam, còn bên kia là một thương nhân nước ngoài. Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương được chuyển từ nước người bán
sang nước người mua. Hay nói cách khác, hàng hóa của hợp đồng của được chuyển qua biên giới Việt Nam ra lãnh thổ nước ngoài hoặc được chuyển qua biên giới nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam.
Theo Điều 1 Công ước La Hay 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình thì “ HĐMBHHQT là hợp đồng mua bán mà hàng hóa được chuyển từ nước người bán sang nước người mua, hoặc hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau, ký hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau”. Theo Công ước này thì HĐMBHHQT cũng có đặc điểm là trụ sở thương mại của các bên đóng ở các nước khác nhau; hàng hóa được vận chuyển từ nước người bán sang nước người mua; hoặc việc ký hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau. Tiêu chí quan trọng nhất để xác định hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa là tiêu chí trụ sở thương mại: các bên mua và bán phải có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau mà không phụ thuộc vào vấn để quốc tịch của các bên mua và bán, Công ước cũng không quy định là bên mua bên bán phải có quốc tịch khác nhau.
Điều 1 Công ước Liên hợp quốc [10, tr.295-296] về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980- CISG, (United Nations Convention on contracts for International Sales of Goods, Vienna 1980) quy định HĐMBHHQT là HĐMBHH giữa các bên có trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau. Như thế ở đây chỉ đưa ra một tiêu chí để xác định HĐMBHHQT, đó là các bên mua và bên bán phải có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau. Như vậy, cả Công ước La Hay năm 1964 và CISG năm 1980 đều lấy tiêu chí trụ sở thương mại của các bên đương sự làm tiêu chí quan trọng để xác định HĐMBHHQT. Nếu trụ sở của các bên mua và bán đóng ở trong một nước, thì đó không phải là HĐMBHHQT. Yếu tố quốc tịch của các bên mua và bán không được hai Công ước này đề cập tới.
Thực tế ký kết HĐMBHHQT cho thấy đa số là các hợp đồng mua bán quốc tế được ký kết giữa các bên có trụ sở đóng ở các nước khác nhau, đồng thời có quốc tịch khác nhau, hàng hóa được chuyển từ nước người bán sang nước người mua hoặc sang nước thứ ba. Số ít trường hợp HĐMBHHQT được ký kết giữa các bên có
cùng quốc tịch nhưng có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau và hàng hóa được chuyển qua khỏi biên giới nước người bán và trường hợp này cũng được coi là HĐMBHHQT.
Tóm lại, dù được định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau nhưng HĐMBHHQT có thể được định nghĩa một cách chung nhất: “HĐMBHHQT là sự thỏa thuận có hiệu lực bắt buộc giữa các bên có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng cho bên bán”.
Bên cạnh những tính chất chung của một HĐMBHH đã trình bày trong phần trước, HĐMBHHQT có đặc điểm đặc thù riêng so với HĐMBHH trong nước đó là yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài của HĐMBHHQT bao gồm và không giới hạn một trong các đặc điểm dưới đây:
1.2.2 Các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.2.1 Chủ thể của hợp đồng, người mua, người bán có cơ sở kinh doanh đăng ký tại hai quốc gia khác nhau
Trong HĐMBHHQT, bên bán, bên mua phải có trụ sở không cùng trong phạm vi một nước(có nghĩa là tại các quốc gia khác nhau), đặc điểm đặc trưng này cho phép phân biệt với HĐMBHH trong nước. Chẳng hạn HĐMBHH được ký kết giữa công ty của Việt Nam có trụ sở đóng tại Việt nam với một công ty có trụ sở tại Mỹ về việc xuất khẩu mặt hàng tôm đông lạnh từ Việt Nam sang Mỹ. Có thể nói, trong HĐMBHHQT, chủ thể chủ yếu là các bên có quốc tịch khác nhau. Tuy nhiên vẫn có một số ít trường hợp bên mua và bên bán có cùng quốc tịch nhưng có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau và hàng hóa được vận chuyển qua biên giới nước ngoài. Hợp đồng đó vẫn được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 10 CISG [10, tr.299] quy định việc xác định trụ sở thương mại của một chủ thể không chỉ dựa trên yếu tố quốc tịch mà theo Điều 10 quy định:
Theo tinh thần của Công ước này:
a. Nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại trở lên thì trụ sở thương mại của họ sẽ được coi là trụ sở nào có mối liên hệ chặt
chẽ nhất đối với Hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng đó, có tính tới các tình huống mà các bên đều biết hoặc đều dự đoán dưới bất kỳ lúc nào trước hoặc vào thời điểm hợp đồng
b. Nếu một bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên của họ.
Như vậy theo pháp luật quốc tế, điều kiện cần và đủ để xác định là một HĐMBHHQT đó là, chủ thể của HĐMBHHQT là các bên có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau. Ngoài điều kiện này, HĐMBHHQT còn có một số đặc điểm dưới đây:
1.2.2.2 Ðồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên hoặc cả hai bên
Với đặc điểm người mua, người bán có trụ sở đăng ký kinh doanh ở các nước khác nhau trong HĐMBHHQT thì phương tiện thanh toán của các bên sẽ là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên. Chẳng hạn một công ty có trụ sở tại Việt Nam ký hợp đồng nhập khẩu thép với một Công ty của Trung Quốc trong đó có điều khoản đồng tiền thanh toán là đồng nhân dân tệ Trung quốc. Đồng nhân dân tệ của Trung quốc là đồng tiền quốc nội tại Trung Quốc nhưng lại là đồng ngoại tệ đối với Việt Nam. Tuy nhiên, nếu hai bên trong hợp đồng lại thỏa thuận phương tiện thanh toán là đồng Đô la Mỹ thì lúc này phương tiện thanh toán lại là ngoại tệ đối với cả hai bên.
1.2.2.3 Hàng hóa - đối tượng mua bán của hợp đồng được chuyển ra khỏi nước người bán trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Cũng do đặc điểm địa điểm trụ sở của các bên trong HĐMBHH là tại các nước khác nhau nên hàng hóa thường là phải vận chuyển qua biên giới của một nước, có thể từ nước từ nước người bán sang nước người mua hoặc sang nước thứ ba (khi người mua hàng hóa đó xuất hàng sang nước thứ ba). Tuy nhiên cũng có trường hợp hàng hóa không chuyển qua biên giới nước người bán nhưng vẫn coi là HĐMBHHQT, chẳng hạn khi hàng hóa là các sản phẩm trong quá trình đang được chờ gia công. Một công ty của Mỹ có trụ sở kinh doanh tại Mỹ ký kết hợp đồng với một công ty
của Việt Nam về việc mua 100 tấn vải da. Tuy nhiên trong điều khoản giao nhận hàng hóa lại quy định hàng được giao đến kho hàng của công ty giày Thượng Đình để chờ gia công tại công ty Giày Thượng Đình. Trong trường hợp này, vải da là đối tượng của hợp đồng mua bán giữa 02 công ty mà không phải chuyển qua biên giới.
1.2.2.4. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có sự kiện pháp lý phát sinh ở nước ngoài
Sự kiện pháp lý có thể là việc ký kết hoặc thực hiện hợp đồng diễn ra ở nước ngoài đối với một hoặc cả hai bên. Nếu hai bên mua và bên bán gặp nhau ở nước người bán để ký kết hợp đồng thì việc ký kết hợp đồng xảy ra ở nước ngoài đối với người mua và ngược lại còn nếu hai bên gặp nhau ở nước thứ ba để ký kết hợp đồng thì việc ký kết hợp đồng xảy ra ở nước ngoài đối với cả hai bên. Trường hợp ký kết hợp đồng mua bán bằng phương thức giao dịch gián tiếp (chào hàng và chấp nhận chào hàng), thì hành vi ký kết hợp đồng diễn ra ở hai nước khác nhau (nghĩa là, xảy ra ở nước ngoài đối với cả hai bên). Tương tự như vậy, trong trường hợp hợp đồng được thực hiện ở nước ngoài (giao và nhận hàng hóa ở nước ngoài đối với một hoặc cả hai bên)
Tóm lại, trong các đặc điểm để xác định HĐMBHHQT thì đặc điểm: một trong các bên hoặc các bên trong hợp đồng có trụ sở thương mại ở nước ngoài hay ở các nước khác nhau là đặc điểm quan trọng nhất.
1.2.3 Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng nói chung là những căn cứ giúp các bên đạt được mục đích và lợi ích mong muốn khi tham gia quan hệ hợp đồng đồng thời là căn cứ bảo vệ các mong muốn hợp lý ấy của các bên, bên cạnh sự bảo vệ thuần túy của pháp luật. Thường thì không thể hoặc không đạt được mục đích nếu các bên đồng thời ngừng việc thực hiện những thỏa thuận trong hợp đồng. Chẳng hạn như người mua ký hợp đồng với người bán ở nước ngoài để mua cà phê theo mức giá nhất định. Thiên tai bất ngờ làm hỏng rất nhiều cà phê khiến cho mức giá hiện thời hay "giao ngay” tăng kỷ lục, khiến người bán giao cà phê bị lỗ lớn. Bên bán có thể đã không dự liệu được việc giá tăng cao như vậy, tuy nhiên với sự thỏa thuận theo hợp đồng, bên mua đã
ký hợp đồng có kỳ hạn chủ yếu nhằm giúp họ tránh việc tăng giá đột ngột và hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra. Luật bán hàng của các nước khác nhau có nhiều cách quy định về cách thức giải quyết các tình huống bất ngờ này nhưng tất cả đều áp dụng việc phân bổ những rủi ro có thể thấy trong hợp đồng giữa các bên.
Trong giao lưu thương mại cũng như bất kể hoạt động kinh doanh nào với đối tác bên ngoài đều được thể hiện thông qua hợp đồng. Đây chính là ràng buộc pháp lý về nghĩa vụ của các bên trong kinh doanh. Hợp đồng không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, đôi khi là lợi ích tinh thần cho chính các bên tham gia quan hệ mua bán quốc tế mà còn mang lại khá nhiều lợi ích cho xã hội. Nó không chỉ làm thúc đẩy giao lưu, trao đổi hàng hóa phát triển, cung cấp ngày càng đa dạng nhu cầu của nền kinh tế các quốc gia mà còn giúp cho nền kinh tế thế giới đi tới xu hướng hội nhập thống nhất. Nhiều chuyên gia kinh tế từng đặt câu hỏi: đâu là yếu tố quan trọng nhất của một thương vụ làm ăn? Phần lớn câu trả lời nhận được là: tính chặt chẽ và hiệu lực của hợp đồng. Khi hợp đồng phát sinh hiệu lực nó ràng buộc nghĩa vụ thực hiện của các bên không thể chối cãi. Khẳng định vai trò của hợp đồng [27], Bill Gates, trong một lần phỏng vấn các ứng viên thi tuyển vào Microsoft, đã đặt câu hỏi: “Theo các bạn, đâu là yếu tố duy trì sự ổn định và thành công của các hoạt động kinh doanh ngày nay?”. Một ứng viên đã trả lời: “Đó là tính chặt chẽ của hợp đồng”. Nhiều người khi đó đã nghi ngờ sự nghiêm túc trong câu trả lời của ứng viên này, chỉ duy nhất Bill Gates là không nghĩ như vậy. Ông đã cho ứng viên này điểm tối đa.
Phân tích trên cho thấy HĐMBHHQT có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là đối với các thực thể kinh doanh. Một hợp đồng ký kết hợp pháp làm phát sinh hiệu lực thực hiện và đem lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia và đáp ứng được mong muốn ban đầu của các bên khi giao kết hợp đồng và thúc đẩy giao lưu thương mại quốc tế phát triển.
1.3 Khái niệm hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.3.1 Định nghĩa hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Có thể nói, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia đều có quy định về hiệu lực của Hợp đồng chính là các điều kiện để xác định một hợp đồng được coi là hợp
pháp, nhưng cách thể hiện các điều kiện này khác nhau và các nhà làm luật cũng sử dụng các cách thức khác nhau để quy định về hiệu lực của HĐMBHHQT. Xét về mặt lý luận có một số cách thức sau:
Thứ nhất, quy định trực tiếp các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, nhà làm luật loại trừ để xác định hợp đồng vô hiệu từ các giao dịch không đủ điều kiện để có hiệu lực này. Cách quy định này có điểm hạn chế đó là cứng nhắc thừa nhận những quan hệ hợp đồng tuân thủ các điều kiện pháp luật đưa ra. Nói cách khác, các chủ thể kinh doanh chỉ được làm những gì pháp luật quy định, loại trừ các giao dịch chưa đủ điều kiện, hợp đồng vô hiệu đương nhiên. Như vậy pháp luật chưa đề cao được vai trò chủ động trong hoạt động kinh doanh, chịu trách nhiệm của chủ thể giao kết hợp đồng. Bởi lẽ, trên thực tế, không phải mọi trường hợp hợp đồng ký kết chưa tuân thủ đầy đủ điều kiện là đã xác định là vô hiệu vì có những điều có thể chưa đáp ứng nhưng không làm ảnh hưởng đến nội dung hợp đồng đã ký.
Thứ hai là quy định các trường hợp vô hiệu của hợp đồng từ đó suy ra những trường hợp còn lại (không vi phạm vào điều khoản vô hiệu) thì hợp đồng có hiệu lực. “Đại diện cho các quốc gia có quy định này là Cộng hòa liên bang Đức và Nhật bản. Bộ luật dân sự của Công hòa Liên bang Đức và Nhật Bản đã quy định các trường hợp vô hiệu của hành vi pháp lý trong phần chung mà không quy định các điều kiện hợp đồng có hiệu lực” [13, tr.58]. Cách quy định này thỏa mãn được quan điểm lập pháp và hành pháp của cơ chế quản lý kinh tế mới đó là “ chủ thể kinh doanh được làm những gì pháp luật không cấm” thay vì chỉ được làm những gì pháp luật quy định.
Thứ ba là quy định cụ thể cả các điều kiện có hiệu lực và điều kiện vô hiệu của hợp đồng. Đây là cách tiếp cận của Bộ Luật Dân sự Cộng hòa Pháp, Bộ Luật Dân sự Việt nam… Giường như đây là cách quy định chặt chẽ hơn cả bởi lẽ cả điều kiện hiệu lực cũng như các điều kiện vô hiệu của hợp đồng đều được pháp luật ghi nhận. Trong trường hợp này chủ thể sẽ rất an tâm vì tất cả các trường hợp đều được pháp luật dự liệu. Tuy nhiên, thực chất cách quy định này cũng không khác cách thức quy định thứ nhất và do đó vẫn có điểm hạn chế là vừa quy định giới hạn các