Quy Định Của Pháp Luật Về Trường Hợp Bất Khả Kháng

thiếu nguyên liệu, mất điện, lỗi mạng vi tính, bên cung cấp chậm trễ giao hàng,… là sự kiện bất khả kháng để hưởng chế độ miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng. Về mặt lý luận thì các sự kiện này không đương nhiên được coi là sự kiện bất khả kháng nếu các bên không thỏa thuận.

Như vậy về mặt nguyên tắc chung, sự kiện bất khả kháng có những đặc điểm sau đây:

Một là, là sự kiện khách quan xẩy ra sau khi ký hợp đồng;

Hai là, là sự kiện xẩy ra không do lỗi của các bên trong hợp đồng;

Ba là, là sự kiện mà các bên trong hợp đồng không thể dự đoán và khống chế được.

1.2.3. Quy định của pháp luật về trường hợp bất khả kháng

1.2.3.1. Quy định của các nước bạn và các thỏa thuận quốc tế có liên quan Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 Theo Công ước Viên năm 1980, khi một bên đương sự trong hợp đồng

gặp: Một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ (nên không thực hiện nghĩa vụ) và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục được các hậu quả của nó mà vi phạm hợp đồng thì được miễn trách nhiệm [12, Điều 79, Khoản 1]. Như vậy, công ước Viên năm 1980 không quy định một các cụ thể, rõ rang “bất khả kháng” là căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Nhưng qua khái niệm (nội dung) trường hợp được miễn trách nhiệm được quy định trong Công ước có thể rút ra đây là trường hợp bất khả kháng. Bởi vì, theo pháp luật của các nước và thực tiễn tư pháp thì bất khả kháng thường được hiểu là hiệu tượng khách quan mà các bên không lường trước được, không thể khắc phục được.

Cũng theo Công ước Viên năm 1980 có thế rút ra rằng bất khả kháng là các sự kiện thỏa mãn các sự kiện sau:

Thứ nhất, nằm ngoài sự kiếm soát của các bên, tức là không phụ thuộc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

vào ý chí của các bên;

Thứ hai, không thể tính toán được vào lúc ký kết hợp đồng, từ là không lường trước được khi ký kết hợp đồng;

Các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - 6

Thứ ba, không khắc phục được.

Luật Hợp đồng Trung Quốc

Theo điều 177 Luật hợp đồng Trung Quốc 1999 [24] thì bất khả kháng là một hiện tượng khách quan xảy ra trong quá trì thực hiện hợp đồng mà các bên không thể khắc phục được và thỏa mãn các điều kiện sau:

Thứ nhất, xảy ra sau khi ký kết hợp đồng và trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Để nhấn mạnh điều này Luật Hợp đồng Trung Quốc quy định: “Các bên sẽ không được miễn trách nhiệm nếu do việc chậm thực hiện nghĩa vụ của mình mà gặp bất khả kháng” [24]. Hơn nữa, mặc dù hợp đồng đã được ký kết nhưng vẫn chưa có giá trị hiệu lực pháp luật; có thể do còn đợi sự phê chuẩn cử cơ quan tổ chức có thẩm quyền nếu pháp luật quy định phải phê chuẩn thì các bên không thể viện lý do bất khả kháng để thoát khỏi trách nhiệm của mình. Vì thế, không phải mọi trường hợp bất kháng đều là căn cứ miễn trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng.

Thứ hai, phải mang tính chất khách quan, trái với quy luật thông thường.Nếu một sự kiện thường xuyên diễn ra, gần như đã là một quy luật thì không thể coi là hiện tượng bất khả kháng.

Thứ ba, các bên không thể lường trước được vào lúc ký hợp đồng.

Thứ tư, hậu quả của sự viện đó lớn tới mức các bên không thể khắc phục được.

Thứ năm, sự kiện đó phải có quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm hợp đồng.

Ngoài định nghĩa về bất khả kháng, Luật Hợp đồng Trung Quốc không đưa ra bất kỳ sự giải thích nào khác cũng như không hề quy định các trường hợp bất khả kháng cụ thể. Do đó, bất kỳ một hiện tượng khách quan nào nếu hội tụ đủ 5 điều kiện đã nêu ở trên thì đều có thể trở thành một trường hợp bất

khả kháng.

Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ - UCC [6]

Theo UCC thì bất khả kháng là những trường hợp xảy ra bất ngờ, không lường trước được, hậu quả không thể khắc phục được.Nếu những trường hợp (như lũ lụt, bão lốc, động đất, núi lửa) chỉ ảnh hưởng một phần đến việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thì không được coi là miễn trách. Tuy nhiên theo Điều 2-613 UCC cũng quy định rằng: nếu đối tượng của hợp đồng vị phá hủy là hàng đã được đặc định hóa thì các bên được giải phóng khỏi nghĩa vụ của hợp đồng. Nếu đó là hàng hóa chưa được đặc định hóa thì khi bị phá hủy, người bán phải giao hang khác cho người mua và phải chịu mọi chi phí phát sinh.

Pháp luật Anh

Pháp luật Anh quy định về bất khả kháng như sau:

Không có khả năng thực hiện hợp đồng (impossibility) do đối tượng hợp đồng không tổn tại (unavailbitity) hoặc vị hư hỏng, bị phá hủy (destrucstion) vì nguyên nhân bất khả kháng sau khi hợp đồng được ký kết. Ví dụ, hai bên ký kết hợp đồng mua bán một ra j hát có tên là Music Hall để “tiến hành tổ chức hòa nhạc”. Tuy nhiên sau đó vì một lý do ngẫu nhiên nào đó, rạp hát đã bị sập một góc dẫn đến các buổi hòa nhạc không thể tổ chức thực hiện được. Người mua kiện người bán đòi bổi thường thiệt hại. Tòa án cho rằng người bán không có lỗi trong việc hợp đồng không thể thực hiện được và vì thế người mua thua kiện. Trong trường hợp hợp đồng yêu cầu việc thực hiện của một người cụ thể (personal performance) mà bên đó bị chết, bị ốm, bị bắt giam không thể thực hiện được thì người ấy được miễn trách nhiệm. Hoặc là pháp luật của Anh có quy định, sự kiện muốn được công nhận là căn cứ miễn trách thì không được phát sinh từ lỗi của các bên trong hợp đồng (must NOT the fault of one of the parties). Nghĩa là phải do một nguyên

nhân nào đó gây ra. Ví dụ, nhà nước ra lệnh cấm xuất khẩu một cách đột xuất hoặc là phương thức thực hiện hợp đồng là không khả thi (method of performance impossible).Nghĩa là một khi một hợp đồng đưa ra một phương thức thực hiện đặc biệt nào đó, mà bên nhận không thể thực hiện được thì bên đó miễn trách.

1.2.3.2. Quy định trong nước

Hiện nay, các quy định về sự kiện bất khả kháng còn khá mờ nhạt trong pháp luật Việt Nam, đặc biệt là các luật chung như Bộ luật dân sự năm 2005, luật chuyên ngành như Luật thương mại năm 2005, luật Hàng hải, Luật Hàng không.

Bộ luật dân sự năm 2005

Trong Bộ luật dân sự năm 2005, chưa có một quy định cụ thể, riêng rẽ thế nào là sự kiện bất khả kháng, những trường hợp nào được coi là bất khả kháng, hậu quả cũng như các nội dung liên quan.

Theo Bộ luật dân sự năm 2005 thì sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biên pháp cần thiết và khả năng cho phép [18, Điều 161, Khoản 1].

Nhìn chung, vấn đề bất khả kháng còn được quy định rất chung chung, thậm chí là khó hiểu cũng như không bao quát được các trường hợp trong thực tế trong Bộ luật dân sự năm 2005. Điều này đã dẫn tới những tranh chấp trong hoạt động thương mại nói riêng và đặc biệt là các định hướng xét xử khác nhau của Tòa án với cùng một sự kiện bất khả kháng.

Luật Thương mại năm 2005

Luật thương mại không có quy định cụ thể về trường hợp bất khả kháng, mà bất khả kháng được quy định nằm trong quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm. Theo đó, các trường hợp miễn trách

nhiệm đối với hành vi vi phạm gồm: một là, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp: xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; xảy ra sự kiện bất khả kháng; hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao hết hợp đồng; hai là, bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miền trách nhiệm [21, Điều 294].

Đối với việc thông báo và xác nhận trường hợp miễn trách nhiệm như đã nêu trên, Luật Thương mại 2005 quy định: một là, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra; hai là, khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứ, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia bieetsl nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại; ba là, bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn trách nhiệm của mình [21, Điều 295].

Đối với việc kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng, Luật Thương mại 2005 quy định: một là, trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn năm tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ thỏa thuận không quá mười hai tháng kể từ ngày giao kết hợp đồng; tám tháng đối với hàng hóa dịch vụ mà thời hạn giao hang, cung ứng dịch vụ được thỏa thuận trên mười hai tháng kể từ ngày giao kết hợp đồng;hai là, trường hợp kéo dài quá các thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không

bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại; ba là, trường hợp từ chối thực hiện hợp đồng thì trong thời hạn không quá mười hai ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này bên từ chối phải thông báo cho bên kia biết trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng; bốn là, việc kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng với hợp đồng mua bán hang hóa cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về giao hang hoặc hoàn thành dịch vụ [21, Điều 296].

Với các quy định này, Luật thương mại năm 2005 đã phần nào theo kịp các quy định trên thế giới. Theo đó, khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra, bên vi phạm hợp đồng phải có sự thông báo ngay cho bên kia về trường hợp miễn trách nhiệm trong một khoảng thời gian thích hợp, nếu không thì vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ở đây, sự kiện bất khả kháng không còn được coi là trường hợp được miễn trừ trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng nữa.

Đây là một nội dung cần chú ý bởi lẽ trong thực tế, không ít những doanh nghiệp khi rơi vào trường hợp bất khả kháng thì vẫn đinh ninh mình được miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không có sự thông báo kịp thời cho bên đối tác, để rồi xảy ra những hậu quả không đáng có.

Như vậy, khác với luật pháp, tập quán quốc tế, pháp luật Việt Nam còn quy định rất chung chung, mờ nhạt về sự kiện bất khả kháng. Theo ý kiến cá nhân tác giả cho rằng điều này xuất phát một phần từ quan điểm cho rằng hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện giữa các bên, nên cũng như các quy định pháp luật khác trong lĩnh vực này, các nhà làm luật quy định khá mở, tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, việc có quy định được trong hợp đồng hay không lại là một chuyện hoàn toàn khác đối với các doanh nghiệp.

Bộ luật Hàng hải 2005

Bộ Luật Hàng hải Việt Nam cũng không có quy định cụ thể về trường hợp bất khả kháng, mà chỉ lồng quy định về bất khả kháng trong các các điều khoản về miễn bồi thường và chấm dứt hợp đồng.

Theo đó, Luật Hàng hải quy định về chấm dứt hợp đồng không phải bồi thường khi: một là, chiến tranh đe dọa sự an toàn của tàu biển hoặc hàng hoá; cảng nhận hàng hoặc cảng trả hàng được công bố bị phong toả; hai là, tàu biển bị bắt giữ hoặc tạm giữ theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không do lỗi của các bên tham gia hợp đồng; ba là, tàu biển bị Nhà nước trưng dụng; bốn là, có lệnh cấm vận chuyển hàng hoá ra khỏi cảng nhận hàng hoặc vào cảng trả hàng [19, Điều 115, Khoản 1].

Có thể thấy các trường hợp này đều thỏa mãn các đặc điểm về trường hợp bất khả kháng, hay nói đúng hơn đây là đều là các trường hợp bất khả kháng.Như vậy, ở các trường hợp bất khả kháng nêu trên thì các bên được chấm dứt hợp đồng và miễn trách nhiệm bồi thường hợp đồng.

Bên cạnh đó, Luật Hàng hải cũng quy định về đương nhiên chấm dứt hợp đồng và không cần phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau: một là, tàu biển được chỉ định trong hợp đồng bị chìm đắm, mất tích, bị cưỡng đoạt;hai là, hàng hoá ghi trong hợp đồng bị mất;ba là, tàu biển được chỉ định trong hợp đồng được coi là hư hỏng không thể sửa chữa được hoặc việc sửa chữa là không kinh tế [19, Điều 116, Khoản 1].

Tương tự cũng có thể thấy các trường hợp hợp đồng vận chuyển hàng hải đương nhiên chấm dứt và không phải bồi thường nêu trên cũng được coi là trường hợp bất khả kháng.Theo đó bằng cách này, các bên tham gia hợp đồng cũng không phải bồi thường đối với thiệt hại phát sinh nếu gặp các tình huống được quy định nêu trên.

Luật hàng không dân dụng 2006

Luật hàng không dân dụng Việt Nam cũng không định nghĩa về điều khoản

bất khả kháng, và quy định về bất khả kháng cũng được lồng trong quy định về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo đó, thì người vận chuyển được miễn một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm trong trường hợp: do quyết định của Tòa án hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với hàng hoá, hành lý ký gửi hoặc do xảy ra chiến tranh hoặc xung đột vũ trang [22, Điều 165, Khoản 2]; và người khai thác tàu bay được miễn trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại là hậu quả trực tiếp của chiến tranh, xung đột vũ trang hoặc tàu bay đang được cơ quan nhà nước có thẩm quyền trưng dụng [22, Điều 178, Khoản 2].

1.2.4. Thủ tục thông báo khi xảy ra tình huống bất khả kháng

Theo thông lệ chung, khi có sự kiện bất khả kháng thì bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng phải gửi thông báo cho bên kia trong một thời hạn hợp lý. Tuy nhiên thông thường, các bên quy định rõ thời hạn thông báo và hậu quả của việc không thông báo: Nếu không thông báo thì sẽ mất quyền được miễn trách nhiệm hoặc kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp nếu các bên không có thỏa thuận cụ thể về hậu quả của việc không thông báo, thì các bên sẽ tuân theo luật áp dụng để giải quyết. Theo nguyên tắc chung của phần lớn luật áp dụng, nếu bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng vi phạm nghĩa vụ thông báo thì sẽ không được hưởng quyền miễn trừ trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng. Điều 79.4 của Công ước của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 quy định: bên không thực hiện hợp đồng phải thông báo cho phía bên kia biết về trở ngại và ảnh hưởng của nó đến khả năng thực hiện hợp đồng. Nếu phía bên kia không nhận được thông báo về điều đó trong thời hạn hợp lý sau khi bên không thực hiện hợp đồng đã biết hoặc buộc phải biết về trở ngại đó, thì bên không thực hiện hợp đồng phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại gây ra cho phía bên kia do không nhận được thông báo.

Do vậy, để bảo đảm lợi ích của mình, bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất

Xem tất cả 111 trang.

Ngày đăng: 05/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí