đưa ra thỏa thuận hợp pháp, phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên khi có phát sinh tranh chấp thì trong nhiều trường hợp để xác định hợp đồng đó có hiệu lực hay không lại rất khó khăn do pháp luật của mỗi nước quy định khác nhau về yếu tố định lượng và định tính liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Nhìn chung các nước đều quy định những điều kiện cơ bản nhất để xác định hiệu lực của hợp đồng là: điều kiện về chủ thể HĐMBHHQT hợp pháp và có đủ năng lực hành vi ký kết; điều kiện về nội dung hợp đồng hợp pháp, không trái đạo đức hoặc trật tự công cộng; điều kiện về ý chí tự nguyện thỏa thuận hợp đồng của các bên tham gia giao kết; điều kiện về hình thức của hợp đồng không trái quy định pháp luật.
Trước hết, để xác định năng lực chủ thể của bên tham gia giao kết hợp đồng, pháp luật các nước thường dựa vào luật nhân thân (bao gồm luật quốc tịch hoặc luật nơi cư trú); các nước theo hệ thống pháp luật thành văn (Pháp, Đức Áo, Bỉ… thường áp dụng luật quốc tịch. Nhưng các nước theo hệ thống luật không thành văn (Anh, Mỹ) lại áp dụng luật nhân thân. Chỉ có một số ít nước quy định áp dụng luật nơi ký kết hợp đồng hoặc luật do các bên trong hợp đồng lựa chọn để xác định năng lực hành vi của chủ thể giao hợp đồng.
Thứ hai, khi có xung đột về yếu tố nội dung hợp đồng các nước đều áp dụng luật do các bên giao kết hợp đồng lựa chọn và việc lựa chọn đó không trái với pháp luật của bất cứ bên nào của hợp đồng. Trường hợp các bên không lựa chọn thì luật áp dụng là luật nơi ký kết hoặc luật nơi thực hiện hợp đồng hoặc luật nơi tồn tại hóa hàng là đối tượng của Hợp đồng hoặc luật của nước mà có quan hệ gắn bó nhất điều chỉnh. (Điều 4 Công ước Roma năm 1980 về luật áp dụng cho quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng), có nghĩa là áp dụng luật của nước mà bên phải thực hiện nghĩa vụ chính trong hợp đồng vào thời điểm xác lập hợp đồng có trụ sở hoặc nơi thường trú. Mặc dù có thể có nhiều cách giải quyết xung đột pháp luật về luật áp dụng để xác định tính hợp pháp của HĐMBHHQT nhưng Luật do các bên lựa chọn được ưu tiên áp dụng hơn cả bởi lẽ bản chất hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện, việc lựa chọn luật áp dụng để xác định tính hợp pháp của hợp đồng cũng là một trong những thỏa thuận tự nguyện của các bên và nó sẽ được ưu tiên áp dụng.
Thứ ba, để xác định yếu tố hình thức của hợp đồng hợp pháp, đa số các nước quy định luật nơi ký kết hoặc giao kết hợp đồng. Tuy nhiên một số nước cũng áp dụng luật do các bên lựa chọn hoặc áp dụng luật nhân thân để xác định hình thức hợp pháp của Hợp đồng. Luật nơi thực hiện hợp đồng cũng được áp dụng ở một số nước Đông Âu.
Nếu các bên không ghi rõ luật nào sẽ được áp dụng cho hợp đồng thì tổ chức xét xử (tòa án quốc gia hoặc tổ chức trong tài) chịu trách nhiệm giải quyết vụ việc sẽ phải quyết định luật áp dụng. Mỗi quốc gia có những qui tắc hướng dẫn việc chọn luật nhưng một trong hai qui tắc sau đây đã được cộng đồng quốc tế sử dụng.
+ Luật áp dụng là luật của nước người bán qui định trong hợp đồng.
+ Luật áp dụng là luật của nơi ký hợp đồng.
Ngoài ra một số công ước hoặc qui tắc quốc tế cũng có những qui định cụ thể về giao dịch quốc tế như: Công ước Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán quốc tế ngày 11 tháng 4 năm 1980 có hiệu lực năm 1988; Những nguyên tắc pháp lý thống nhất (UNIDROIT) về hợp đồng thương mại quốc tế 1994. Hai văn bản nói trên và những văn bản quốc tế khác tương tự đều có thể được các bên lựa chọn để điều chỉnh hợp đồng và giải quyết những tranh chấp phát sinh trong các quan hệ liên quan đến hợp đồng.
Có thể bạn quan tâm!
- Vấn đề hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam - 2
- Các Đặc Điểm Của Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế
- Các Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế
- Các Điều Ước Quốc Tế Về Giao Dịch Thương Mại, Hợp Đồng
- Có Tài Sản Độc Lập Với Cá Nhân, Tổ Chức Khác Và Tự Chịu Trách Nhiệm Bằng Tài Sản Đó;
- Mục Đích Và Nội Dung Hợp Đồng Không Vi Phạm Điều Cấm Hoặc Không Trái Trật Tự Công Cộng Và Đạo Đức Xã Hội
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Tóm lại, mỗi cuộc giao dịch xuyên quốc gia đều phát sinh vấn đề luật áp dụng. Luật áp dụng là đạo luật mà các bên tham gia hợp đồng lựa chọn để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng hoặc đạo luật sẽ được áp dụng khi các bên không chọn trước luật cụ thể.
1.4.2 Xung đột về thời điểm hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng phụ thuộc vào loại hình và cách thức mà các bên thể hiện sự thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Có nước quy định hợp đồng có hiệu lực ngay từ khi các bên đã đạt được sự thỏa thuận hợp pháp và đồng ý rõ ràng về nội dung cơ bản của HĐMBHH (loại hàng hóa mua bán và giá cả của hợp đồng) mà không phụ thuộc vào việc thỏa thuận đó được thể hiện
dưới hình thức văn bản hay bằng lời nói hay hành vi nào khác. Các thỏa thuận về hợp đồng chỉ không làm phát sinh hiệu lực khi mà một trong các bên thể hiện rõ ràng bằng ý định hoặc hành vi rõ ràng loại trừ một cách có chủ ý hiệu lực pháp lý của các thỏa thuận đó.
Tuy nhiên rất nhiều nước lại quy định hợp đồng chỉ hình thành và có hiệu lực khi thỏa thuận của các bên là hợp pháp và phải đáp ứng điều kiện về một số thủ tục, hình thức thì khi ấy hợp đồng mới hoàn thiện và có hiệu lực.
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tùy thuộc vào quan niệm của các nước về thời điểm mà giao kết hay thỏa thuận hợp đồng có hiệu lực. Theo pháp luật các nước phương tây, thuật ngữ “hợp đồng” được dùng để chỉ một lời hứa làm hoặc không làm việc gì đó, được luật pháp đảm bảo bằng các hình phạt hoặc ít nhất là được luật pháp thừa nhận. Nhưng, luật pháp các nước lại có quy định khác nhau về bản chất của lời hứa này [20]. Chẳng hạn, các nước theo hệ thống luật lục địa (romano-germanique), quan điểm “ưng thuận” (consensuel) nổi trội hơn cả, ý định giao kết hợp đồng của các bên là điều kiện cần và đủ để chứng minh có tồn tại một nghĩa vụ hợp đồng và có hiệu lực từ thời điểm các bên đồng ý rõ ràng ý định đó bằng hành vi cụ thể. Các hệ thống luật khác lại đòi hỏi rằng lời hứa phải được hoàn chỉnh bởi một thủ tục sau đó, có thể là ký một văn bản chính thức, hoặc trao lại một cái gì đó. Một số hệ thống luật khác lại yêu cầu phải có sự trao đổi về kinh tế để làm rõ và củng cố lời hứa (trong luật của Anh gọi là “consideration”), thì khi đó hợp đồng mới phát sinh hiệu lực.
1.5 Tầm quan trọng của hiệu lực hợp đồng và hậu quả pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.5.1 Tầm quan trọng về hiệu lực của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định hiệu lực của HĐMBHHQT phản ánh quyền tự do giao kết hợp đồng và ghi nhận sự thỏa thuận hợp pháp của các bên. Hợp đồng có hiệu lực cũng đồng nghĩa với việc chính các bên đã ngăn chặn sự gian lận và lạm quyền; bất cứ sự gian lận hay cưỡng ép về một thỏa thuận nào trong hợp đồng sẽ không có hiệu lực pháp luật. Những hợp đồng mua bán có yếu tố gian lận còn làm mất đi lòng tin của mọi người vào thị trường và hệ thống pháp luật.
Hơn nữa, các bên đều tự quyết định có hay không tồn tại một hợp đồng để từ đó đạt được mục đích ban đầu của mình. Trong phạm vi một nền kinh tế thì các thực thể kinh doanh chỉ có thể tiến hành thực hiện hành vi thương mại của mình ở nước ngoài thông qua các cam kết, các hợp đồng mua, bán hàng hóa quốc tế. HĐMBHHQT có hiệu lực là phát sinh quyền và nghĩa vụ chuyển giao hàng hóa và thanh toán giữa các bên. Như vậy, thông qua hợp đồng này, các thực thể kinh doanh có thể mở rộng và triển khai được các kế hoạch kinh doanh quốc tế của mình mang lại nhiều lợi nhuận hơn khi chỉ kinh doanh trong nước. Trong phạm vi một quốc gia, các hoạt động của thực thể kinh doanh đó góp phần là cơ sở và động lực cho việc phát triển kinh tế đối ngoại của một quốc gia hòa nhập với kinh tế thế giới.
Thứ hai, HĐMBHHQT có thể được tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sự đa dạng trong hình thức và cách thức ký kết hợp đồng đã làm giảm chi phí giao dịch cho chính các bên và góp phần thúc đẩy giao lưu thương mại. Nếu chi phí thực hiện giao dịch cao thì các bên sẽ bỏ lỡ các cơ hội có lợi. Do vậy, các thủ tục cần thiết để xác lập một hợp đồng có hiệu lực, chẳng hạn như thủ tục chứng thực của cơ quan công chứng trong một số hệ thống pháp lý, thủ tục ký kết hợp đồng bắt buộc bằng văn bản đã bị hạn chế áp dụng trong hệ thống pháp luật của nhiều nước. Hơn nữa, bằng sự tự do thỏa thuận trong hợp đồng, các bên cũng tự giới hạn cho mình các điều khoản có hiệu lực mà pháp luật phải ghi nhận. Chẳng hạn các bên vẫn có thể tự do thay đổi các quy định mà pháp luật quy định miễn là không trái pháp luật, từ đó đơn giản hoá đáng kể quá trình ký kết thoả thuận hợp đồng.
1.5.2 Xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cho phép xác định thời điểm bắt đầu có giá trị pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ các bên
Các bên không có quyền rút lại cam kết của mình khi hợp đồng chính thức có hiệu lực trừ trường hợp có thể thay đổi cam kết bằng sự thỏa thuận khác. Từ khi hợp đồng phát sinh hiệu lực, hợp đồng trở thành chứng cứ quan trọng để xác định luật có hiệu lực áp dụng cho hợp đồng đó đồng thời nó còn là căn cứ bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện ra tòa yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
1.5.3 Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên
HĐMBHHQT vô hiệu về thực chất là hợp đồng không được pháp luật thừa nhận do đã có sự trái pháp luật trong quá trình ký kết hoặc các nội dung thỏa thuận của các bên trái pháp luật, vi phạm điều cấm của pháp luật. Hậu quả của sự vô hiệu ảnh hưởng trực tiếp đến các chủ thể tham gia giao dịch và đến xã hội. Khi xác định hợp đồng bị vô hiệu, hợp đồng đó không có giá trị pháp lý tại thời điểm ký kết do đó không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Hãng Ford, một trong những hãng sản xuất xe hơi lớn nhất thế giới, bên cạnh hàng nghìn các hợp đồng mua bán xe hơi mỗi ngày, hãng còn tham gia vào rất nhiều giao dịch kinh doanh khác như đầu tư, phân phối, mua nguyên vật liệu… John Mene, cố vấn pháp luật của Ford [27] cho biết: “Trung bình mỗi ngày, các giám đốc, trưởng phòng ban của hãng chúng tôi phải ký kết gần 3000 hợp đồng khác nhau. Và chỉ cần một hợp đồng có sai sót thôi cũng đủ để chúng tôi mất đi hàng triệu USD. Do vậy, quá trình soạn thảo và ký kết hợp đồng luôn được thực hiện rất chặt chẽ, có nhiều chữ ký của các nhân viên tham gia vào việc soạn thảo hợp đồng”. Mỗi hợp đồng sẽ là cơ sở tạo thành các yếu tố liên quan, từ đó thiết lập các quan hệ kinh doanh giữa các đối tác như nhân lực, khách hàng, nhà thầu, chi phí, quyền lợi và trách nhiệm…đồng thời là cơ sở để pháp luật bảo vệ.
Thực tế còn cho thấy đã có nhiều trường hợp các bên giao kết hợp đồng với nhau và đang tiến hành thực hiện hợp đồng, nhưng rồi khi một tranh chấp nhỏ xảy ra, một trong hai bên đối tác lại lợi dụng sự thiếu chặt chẽ trong hợp đồng để thu lợi riêng cho mình. Chẳng hạn, nếu đối tác ký kết HĐMBHH với người chưa có giấy phép đăng ký kinh doanh và quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh có phát sinh tranh chấp, mà sau khi phát sinh tranh chấp bên kia đồng ý hoàn tất thủ tục trong một thời gian nhất định nhưng người đó vẫn không thể hoàn tất thủ tục pháp lý đó để thực hiện phần việc đã thoả thuận trong hợp đồng, thì một bên có thể yêu cầu hủy hợp đồng tuyên nội dung liên quan đến hàng hóa đó vô hiệu do đối tượng hàng hóa không được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Lúc này, người đó dù có kinh doanh hợp pháp, nhưng trong trường hợp này vẫn không có căn cứ để
yêu cầu bên đối tác kinh doanh thực hiện các nghĩa vụ đã ký kết là thanh toán tiền mua hàng hóa đó. Hai bên sẽ trở lại tình trạng ban đầu. Thiệt hại kinh tế cho cả hai bên nhưng người không có đăng ký kinh doanh khi cung cấp hàng hóa sẽ thiệt hại hơn rất nhiều. Như vậy, am hiểu về pháp luật hợp đồng sẽ giúp các bên tránh được hoặc hạn chế tối đa những tranh chấp và thiệt hại có thể phát sinh khi giao kết hợp đồng.
Trong nhiều trường hợp khác, quyền và nghĩa vụ của các bên hoàn toàn không phát sinh hiệu lực do ngay từ đầu đối tượng của hợp đồng trái pháp luật hoặc không tồn tại trên thực tế…(hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ), tuy nhiên việc xác định hợp đồng vô hiệu toàn bộ hay một phần cũng có ý nghĩa lớn bởi lẽ trong trường hợp hợp đồng bao gồm nhiều điều khoản khác nhau, không phải trong mọi trường hợp một điều khoản vô hiệu làm vô hiệu toàn bộ các nội dung khác của hợp đồng mà vẫn có trường hợp một điều khoản không cơ bản của hợp đồng bị vô hiệu thì các nội dung khác vẫn có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên, mục đích ký kết hợp đồng ban đầu của các bên vẫn đạt được.
1.5.4 Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế vô hiệu gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho các bên do phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
Trường hợp hợp đồng chưa thực hiện thì các bên phải dừng thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên đa số các trường hợp là hợp đồng đang trong quá trình thực hiện thì một trong các bên phát hiện hợp đồng vô hiệu và ảnh hưởng đến quyền lợi của họ hoặc quyền lợi của bên thứ ba, khi ấy các bên phải hủy hợp đồng và hoàn trả lại cho nhau như tình trạng ban đầu trước khi ký kết. Hậu quả xử lý này vô cùng khó đối với các bên vì hợp đồng đã thực hiện, tài sản không còn nguyên trạng, tiền bị mất gía trị, mất cơ hội đầu tư….Vì vậy, các nước đều quy định nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền theo phương thức đền bù ngang giá so với thời điểm gía khi giao kết hợp đồng, đồng thời bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu sẽ phải bồi thường. Trường hợp hợp đồng vô hiệu toàn bộ do hàng hóa của hợp đồng không được phép lưu thông/bị cấm lưu thông thì các bên còn bị tịch thu hàng hóa xung công cộng.
Tóm lại, phân tích vai trò hiệu lực của hợp đồng mua bán hành hóa quốc tế cho thấy, để một hợp đồng có hiệu lực và có giá trị pháp lý ràng buộc nghĩa vụ thực hiện các bên, các chủ thể tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế cần chuẩn bị kỹ lưỡng các điều khoản trước khi ký kết hợp đồng để đảm bảo hợp đồng có hiệu lực thực hiện trên thực tế, tránh những rủi ro có thể xảy ra làm hợp đồng bị vô hiệu.
1.6 Nguồn luật điều chỉnh hiệu lực hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.6.1. Luật quốc gia
Khi các bên trong hợp đồng thỏa thuận hoặc toàn án, trọng tài khi giải quyết tranh chấp lựa chọn áp dụng luật quốc gia nước ký kết hay quốc gia nơi thực hiện hợp đồng hay quốc gia nơi tồn tại hàng hóa là đối tượng của hợp đồng…., luật quốc gia trở thành một nguồn luật quan trọng điều chỉnh HĐMBHHQT.
Luật quốc gia của mỗi nước đều có quy phạm pháp luật về hiệu lực hay tính hợp pháp của HĐMBHH. Pháp luật đa số các nước đều quy định: các bên của HĐMBHHQT có thể chọn luật nước mình hoặc luật nước ngoài để áp dụng cho hợp đồng. Luật quốc gia nơi ký kết hoặc nơi thực hiện hợp đồng thường được áp dụng để xác định các yếu tố có hiệu lực của hợp đồng. Thương nhân của một nước được quyền lựa chọn một luật quốc gia để điều chỉnh HĐMBHHQT. Khi áp dụng luật phải chọn đúng luật chuyên ngành và có dẫn chiếu sang các luật khác nếu trong luật chuyên ngành đó quy định.
Trường hợp các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng điều chỉnh hiệu lực của hợp đồng thì có thể áp dụng các quy định trong các điều ước quốc tế mà quốc gia mình đã tham gia ký kết hoặc gia nhập.
Trường hợp Tòa án hoặc trọng tài chọn luật là những trường hợp hợp đồng không quy định luật áp dụng, giữa hai bên (bên mua và bên bán) cũng không có văn bản thỏa thuận riêng về luật áp dụng cho hợp đồng giữa hai nước hữu quan ký kết hợp đồng hoặc tham gia điều ước quốc tế quy định luật nào áp dụng cho hợp đồng. Khi quyết định luật nước nào đem áp dụng để giải quyết tranh chấp, Tòa án hoặc Trọng tài thường căn cứ vào luật nước mình hoặc nếu luật nước Tòa án chỉ ra luật
nước người bán, thì Tòa án sẽ áp dụng luật nước người bán, nếu chỉ ra luật nơi ký kết hợp đồng thì Tòa án sẽ áp dụng luật nơi ký hợp đồng để giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên pháp luật quốc gia khác nhau quy định khác nhau về chọn luật nước ngoài, có nước cho phép chọn bất kỳ luật quốc gia nào, không đặt ra điều kiện gì. Có nước đặt ra điều kiện nhất định khi chọn luật quốc gia nước ngoài, chẳng hạn, BLDS 2005 quy định được phép áp dụng luật nước ngoài nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với pháp luật Việt Nam. Trong một số trường hợp, các bên có thể đưa ra luật của một nước thứ ba để xác định hiệu lực của hợp đồng ví dụ HĐMBHH có hàng hóa đang ở tại nước thứ ba.
Ở Trung Quốc [12], quan hệ mua bán hàng hóa được điều chỉnh bởi Luật hợp đồng, còn ở Anh, Mỹ có rất nhiều luật để điều chỉnh quan hệ này; ở Anh có: Luật bán chịu năm 1965; Luật giao hàng năm 1973; Luật bán hàng năm 1979…; ở Mỹ có Bộ luật thường mại thống nhất Hoa kỳ (UCC); Luật các biện pháp bảo đảm bán hàng tiêu dùng… Ở Việt nam trước khi có Bộ luật dân sự sửa đổi 2005, có rất nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh HĐMBHH trong đó quy định về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng vô hiệu như Bộ luật dân sự 1995, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989, Luật thương mại VN 1997, Nghị định số 57/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài quy định và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật và Luật đó. Tuy nhiên những quy định về hiệu lực của HĐMBHH trong các văn bản đó vẫn chưa đầy đủ và không thống nhất vì chưa có một luật gốc về hợp đồng mà còn đang phân biệt hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự (yếu tố thương mại hay dân sự trong hợp đồng còn nhiều tranh cãi), chưa thống nhất cách định nghĩa yếu tố nước ngoài, tư cách chủ thể HĐMBHH với thương nhân nước ngoài. Bộ luật dân sự Việt Nam sửa đổi 2005, Luật thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số
12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài, Thông tư của Bộ thương