Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Ở Việt Nam


nhiều thời kỳ đấu tranh cách mạng, các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, từng bước khẳng định vai trò, vị trí của mình trong hệ thống chính trị, được Đảng, Nhà nước và xã hội thừa nhận.

Hiện nay, các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị Việt Nam. Về mặt cấu trúc, hệ thống chính trị Việt Nam được hợp thành từ ba bộ phận: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị, trong quá trình hiệp thương dân chủ, vừa phối hợp hành động chung, vừa giữ tính độc lập của mình. Với tư cách là một bộ phận của hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội có cơ sở pháp lý vững chắc để tham gia vào hoạt động của hệ thống chính quyền, thực hiện các hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước.

3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam

Mỗi tổ chức chính trị - xã hội có mục đích, tôn chỉ và điều lệ hoạt động riêng, tuy nhiên, đều thực hiện hai chức năng cơ bản: chức năng chính trị và chức năng xã hội. Chức năng chính trị được thể hiện ở chỗ các tổ chức này là cơ sở chính trị của Đảng và Nhà nước; thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tổ chức các thành viên, hội viên tham gia công việc của nhà nước, góp phần giám sát, phản biện chính quyền. Chức năng xã hội thể hiện ở việc các tổ chức này đại diện cho các thành viên, hội viên; chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, hội viên. Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị - xã hội được xác định xuất phát từ yêu cầu khách quan của đời sống chính trị, từ đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam và đã được Hiến pháp, pháp luật quy định.

Hiện nay, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên được xác định là “cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [69, tr.11-12].

Thứ nhất, các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền


nhân dân

Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức có vai trò quan trọng trong việc bầu cử ra các cơ quan quyền lực nhà nước. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp quy định, các tổ chức chính trị - xã hội có quyền hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu người ra ứng cử vào các cơ quan dân cử; tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri; giám sát toàn bộ quá trình bầu cử, góp phần quan trọng vào kết quả của các cuộc bầu cử.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

Các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là ở cơ sở, tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đây là một nhiệm vụ có tính tổng hợp trong việc thực hiện các chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.

Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội còn thực hiện một số nhiệm vụ khác như: Tham gia xây dựng pháp luật; Tham gia tố tụng, tuyển chọn Thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm nhân dân; Tham dự các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, kỳ họp HĐND, phiên họp UBND; Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước;…

Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 12

Thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nói trên, các tổ chức chính trị - xã hội góp phần quan trọng vào việc kiểm soát quyền lực của Đảng và Nhà nước, hạn chế nguy cơ chuyên quyền, độc đoán, xa dân.

Thứ hai, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân

Các tổ chức chính trị - xã hội tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Đây là chức năng quan trọng thể hiện bản chất của các tổ chức chính trị - xã hội, tức là đại diện cho lợi ích của hội viên, thành viên, của các cộng đồng, các nhóm dân cư; thông qua những cơ chế của hệ thống chính trị để hiện thực hoá chúng, bảo vệ những lợi ích đó trước nguy cơ xâm hại từ phía nhà nước cũng như thị trường.

Các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Đây


cũng là một trong những cơ sở tồn tại của các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt trong chế độ nhất nguyên chính trị, không có các chính đảng và lực lượng chính trị đối lập như ở nước ta, vấn đề kiểm soát quyền lực của Đảng Cộng sản cầm quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước phải được chú trọng để hạn chế tình trạng chuyên quyền, độc đoán. Các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò là các tổ chức đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, là công cụ để nhân dân tham gia công việc của nhà nước, kiểm soát quyền lực của Đảng và Nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của mình đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thứ ba, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội

Trong số các tổ chức chính trị - xã hội, MTTQ Việt Nam đóng vai trò là một “liên minh chính trị” rộng lớn, là một biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc và là một tổ chức tập hợp đông đảo nhất, rộng rãi nhất mọi tầng lớp nhân dân, mọi dân tộc, mọi tôn giáo, mọi thành phần kinh tế, mọi cá nhân muốn phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các tổ chức chính trị - xã hội còn lại đều là thành viên của MTTQ, đóng vai trò nòng cốt trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện dân chủ và tăng cường sự đồng thuận xã hội.

Các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua nhiều phương thức khác nhau, tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp các lực lượng toàn dân thành một khối thống nhất để thực hiện mục tiêu chính trị chung là giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sự đồng thuận trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội.

Thứ tư, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát, phản biện xã hội

Giám sát, phản biện xã hội là những chức năng quan trọng của các tổ chức chính trị - xã hội. Giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội là việc theo dòi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. Phản biện của


các tổ chức chính trị - xã hội là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án của cơ quan nhà nước.

Giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội xuất phát từ nguyên tắc hiến định của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội là thực hiện kiểm soát của chủ thể quyền lực đối với chủ thể được ủy quyền. Vì vậy nó mang tính khách quan, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân; tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, của công dân, của các cộng đồng.

Với đặc thù của hệ thống chính trị nước ta, để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng và thực thi quyền lực của Nhà nước luôn đúng đắn, thể hiện đầy đủ ý chí nguyện vọng của nhân dân, cần có cơ chế đảm bảo sao cho chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải được sự phản biện; quá trình thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước phải được giám sát. Sự giám sát và phản biện đó, một mặt mang tính nhà nước được tiến hành bởi các cơ quan quyền lực nhà nước, mặt khác, được thực hiện bởi xã hội công dân, mang tính nhân dân, mà một trong những hình thức đó là giám sát, phản biện của các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ năm, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ này bằng nhiều phương thức khác nhau, từ tham gia bầu cử, góp ý cho dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, tham gia phòng chống tham nhũng, lãng phí, đến góp ý kiến, kiến nghị với Nhà nước. Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội còn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện đối ngoại nhân dân, phát huy vai trò của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài, thực hiện các hoạt động trao đổi, hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính trị - xã hội ở các nước trên thế giới và các tổ chức phi chính phủ (NGOs).


3.2. CÁC YẾU TỔ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

3.2.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội

Mức độ hoàn thiện, đồng bộ của cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước là điều kiện tiên quyết đảm bảo hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội được thực hiện có hiệu quả.

Cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Điều đó cho thấy chúng ta dần nhận thức được vai trò, vị trí, tầm quan trọng của các tổ chức này trong đời sống chính trị. Cho đến nay, cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật như: Luật MTTQ Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh tra, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Khiếu nại, Luật tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Pháp lệnh dân chủ cơ sở,…

Các quy định của pháp luật về chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp được cụ thể hóa ở mức độ nhất định. Hiện nay, các tổ chức chính trị - xã hội được tạo điều kiện về mặt pháp lý để thực hiện vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước trên nhiều phương diện: i) Kiểm soát việc tổ chức quyền lực nhà nước (tham gia bầu cử, lựa chọn nhân sự cho nhánh tư pháp);

ii) Kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà nước, từ lập pháp (góp ý cho dự thảo văn bản pháp luật, phản biện xã hội), hành pháp (giám sát việc thi hành pháp luật; phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân; tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí; giám sát thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng), đến tư pháp (giám sát tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật; giám sát quá trình thực hiện pháp luật về tố tụng); iii) Giám sát cán bộ, công chức, viên chức nhà nước (lấy phiếu tín


nhiệm; giám sát hoạt động cán bộ, đảng viên ở khu dân cư; thực hiện quyền đề nghị bãi miễn đại biểu dân cử).

Các điều kiện pháp lý hỗ trợ cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước như tự do ngôn luận, tự do báo chí, lập hội, biểu tình; thể chế công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của nhà nước cũng không ngừng được bổ sung, hoàn thiện.

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta chưa thực sự tạo dựng được các cơ chế pháp lý hữu hiệu để các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thứ nhất, hiện nay chưa có một văn bản pháp luật thống nhất quy định về hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội, tình trạng các quy định của pháp luật phân tán, rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau gây khó khăn cho hoạt động kiểm soát trên thực tế. Trong số các tổ chức chính trị - xã hội, chỉ có MTTQ được tạo các điều kiện thuận lợi hơn về cơ chế pháp lý để tiến hành các hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội còn lại, cơ chế kiểm soát quyền lực được quy định phân tán trong hàng chục các văn bản pháp luật khác nhau, từ Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức bộ máy, các đạo luật chuyên ngành, đến các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thứ hai, một số quy định pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội chỉ mang tính chất “luật khung” (ví dụ như quyền đề nghị bãi miễn đại biểu dân cử của MTTQ) nên gặp nhiều khó khăn trong triển khai thực hiện. Nhiều quy định tập trung xác định địa vị của các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp Trung ương trong khi đó các quy định cho các tổ chức này ở các cấp địa phương khá mờ nhạt.

Thứ ba, nội dung và hình thức pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn cho những chủ thể thực hiện hoạt động kiểm soát quyền lực. Chẳng hạn, đối với hoạt động giám sát và phản biện xã hội, pháp luật mới chỉ cho phép các tổ chức này giám sát việc “thực hiện chính sách, pháp luật” của các cơ quan nhà nước và phản biện đối với “dự thảo các văn bản pháp luật”. Trên thực tế, để đảm bảo quá


trình hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật của Nhà nước có hiệu quả, phải thực hiện giám sát và phản biện xã hội ở tất cả các khâu, từ trình dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, lấy ý kiến, thẩm định, thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý, thông qua, ban hành, đến tổ chức thực hiện, sửa đổi,…

Thứ tư, chưa có quy định bắt buộc và biện pháp chế tài về trách nhiệm phản hồi, giải trình của các cơ quan nhà nước sau khi tiếp nhận những đề xuất, kiến nghị từ hoạt động kiểm soát quyền lực của các tổ chức chính trị - xã hội khiến cho hoạt động kiểm soát nhiều lúc chưa đạt được hiệu quả mong muốn.

3.2.2. Đặc điểm tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội

Với tư cách là một trong những chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc điểm tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kiểm soát. Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam “mặc dù không điển hình, nhưng vẫn mang tính phổ biến” [79, tr.39]. Tính phổ biến được thể hiện ở chỗ sự ra đời của các tổ chức này cũng xuất phát từ nhu cầu nội tại của các tầng lớp nhân dân, là những tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân qua các thời kỳ lịch sử. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử - cụ thể của nước ta, bên cạnh tính phổ biến, các tổ chức chính trị - xã hội còn có những nét đặc thù. Có thể khái quát một số đặc điểm nổi bật của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam có tác động đến hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước:

Một là, các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam đều do Đảng Cộng sản sáng lập và lãnh đạo. Đặc điểm này xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử của cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến của dân tộc ta. Các tổ chức chính trị - xã hội ra đời dưới sự hiệu triệu, tổ chức và lãnh đạo của Đảng nhằm tập hợp lực lượng, sức mạnh cho cách mạng giải phóng dân tộc. Điều này làm cho các tổ chức chính trị - xã hội và Đảng Cộng sản có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ, tạo nên một thể thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Sự gắn bó này được tiếp tục duy trì cho đến tận ngày nay, tạo nên một đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam so với hệ thống chính trị của các quốc gia tư bản chủ nghĩa.

Sự lãnh đạo của Đảng đã gắn kết các bộ phận hợp thành, tạo nên sức mạnh


tổng hợp để giành thắng lợi trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong điều kiện hiện nay, đặc điểm này tạo nên sự thống nhất về mặt mục tiêu và gắn kết quá trình hoạt động giữa các bộ phận của hệ thống chính trị để đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, nó cũng làm nảy sinh những vấn đề hạn chế, đặc biệt trong việc thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội. Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội khiến cho các tổ chức này mất đi tính chủ động trong tổ chức hoạt động và có xu hướng bị “đảng hóa”, từ chỗ là tổ chức của các tầng lớp nhân dân biến thành cánh tay nối dài của Đảng; từ mang tính đại diện cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân trở thành công cụ để bảo vệ quyền lợi cho Đảng. Điều này khiến cho các tổ chức chính trị - xã hội đứng trước nguy cơ mất đi cơ sở xã hội cho sự tồn tại của mình, hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước cũng trở nên thiếu khách quan và hiệu quả.

Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội được tổ chức theo các cấp hành chính từ trung ương đến cơ sở. Các tổ chức này có mặt ở bốn cấp hành chính: Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (cấp cơ sở), dưới cấp xã có các chi hội, hoạt động trong các cộng đồng dân cư; tồn tại song hành cùng với tổ chức đảng và chính quyền; đội ngũ cán bộ chuyên trách của các tổ chức chính trị - xã hội cũng được xếp vào ngạch bậc công chức nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội còn có mặt ở các chi hội trong các cộng đồng dân cư, trong các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp quốc doanh trong và ngoài nhà nước, các lực lượng vũ trang,… Ngay trong bản thân một tổ chức chính trị - xã hội cũng có thể có sự tồn tại của các tổ chức chính trị - xã hội khác nhau. “Nghĩa là các tổ chức chính trị - xã hội không chỉ tồn tại theo một hệ thống từ trên xuống dưới, trong các lĩnh vực, ngành nghề mà chúng còn tồn tại đan xen, lồng vào nhau tạo thành một khối vững chắc có mối liên hệ chặt chẽ”. [80, tr.99].

Các tổ chức chính trị - xã hội đều có cơ sở xã hội rộng lớn, với số lượng thành viên, hội viên đông đảo, tập hợp phần lớn nhóm dân số mà các tổ chức này đại diện. Hiện nay, MTTQ Việt Nam có 46 tổ chức thành viên với mạng lưới tổ chức từ trung ương đến cơ sở và có xu hướng ngày càng mở rộng bao phủ mọi lĩnh vực của đời

Xem tất cả 195 trang.

Ngày đăng: 11/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí