và tôn giáo; vì thế nó luôn biến đổi theo các giai đoạn lịch sử và có sự khác biệt giữa các xã hội. Giới là sản phẩm của cấu trúc xã hội – văn hóa. Ở luận văn này, chúng tôi đề cập đến hướng nghiên cứu giới hay nghiên cứu gender.
Với cách diễn đạt khác, trong bài phát biểu của Hội phụ nữ Việt Nam cũng định nghĩa rõ ràng về giới tính và giới, theo đó giới tính là “bẩm sinh và đồng nhất (nam giới và nữ giới) khắp nơi trên thế giới đều có chức năng và cơ quan sinh sản khác nhau không thể thay đổi được giữa nam và nữ do các yếu tố sinh học quyết định”. Cùng với đó là khái niệm về giới: “Giới phản ánh sự khác nhau giữa nam và nữ về khía cạnh xã hội”. Vai trò giới là “tập hợp những hành vi ứng xử mà xã hội đang mong đợi ở nam và nữ liên quan đến những đặc điểm giới tính và năng lực xã hội coi là thuộc về nam giới và nữ giới” [45, tr. 61] trong xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể nào đó.
Khái niệm giới theo Hoàng Bá Thịnh đã chỉ ra giới (gender) trong xã hội là “khái niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà còn cả mối quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ ấy luôn có sự phân biệt giữa vai trò, trách nhiệm, hành vi hoặc sự mong đợi mà xã hội quy định cho mỗi giới. Những quy định, mong đợi xã hội ngày càng phù hợp với đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế , xã hội, tôn giáo vì thế nó luôn biến đổi theo các giai đoạn lịch sử và có sự khác biệt các cộng đồng và xã hội”[44, tr.33].
Khái niệm về giới là một trong những khái niệm dùng dựa trên những đặc điểm sinh học nam và nữ, được sử dụng như một thuật ngữ chỉ sự khác biệt của từng giới do những quy định của văn hóa từ đó tạo ra khái niệm nam tính và nữ tính. Thuật ngữ được quy định “do yếu tố văn hóa xã hội vốn được hình thành bởi bộ phận văn hóa chiếm ưu thế vượt trội hơn và có thể chuyển đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác trong tiến trình của sự phát triển mà đặc trưng và nhiệm vụ của mỗi giới được định hình” [44, tr.113].
Đặc điểm giới
Giới hình thành nên những đặc điểm nam tính hay nữ tính theo sự kỳ vọng, mong đợi của xã hội:
Nữ tính hay còn gọi là Femininity bao gồm những người có trực giác, tình cảm, yếu đuối, dễ xúc động, tổn thương, ngoan ngoãn, mềm yếu, nhân hậu và dễ bộc lộ tình cảm. Đó là những phẩm chất được xem là đặc trưng cho phụ nữ trong một nền văn hóa của một giai đoạn lịch sử nào đó. Theo nghiên cứu của nhiều học giả về giới trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội, nữ tính thường được gắn với sự tái sản sinh ra sự sống (sinh nở) và những phẩm chất thuộc về sự chăm sóc, nuôi dưỡng như sự nhã nhặn, dịu dàng, thiên chức làm mẹ, sinh đẻ, trực giác nhạy bén, tính sáng tạo, chu kỳ sinh học của cuộc sống…
Nam tính hay còn gọi là Masculinity, yếu tố nam tính quy tụ những người có đặc điểm hung hăng, hiếu chiến, duy lý, mạnh mẽ, thống trị, năng nổ, vô tình, cạnh tranh, tự quyết định và ít bộc lộ tình cảm. Đó là những tiêu chuẩn hoặc mẫu hình mà nam giới trong một nền văn hóa được kỳ vọng sẽ noi theo nếu họ muốn tương tác một cách thích hợp và được chấp nhận với những người khác (nam và nữ). Các nhà lý thuyết về giới đều cho rằng không thể có một mẫu hình đàn ông chung cho mọi thời đại và mọi khu vực vì nam tính, với tư cách là một cấu trúc văn hóa, khó tránh khỏi thay đổi. Nhận định của Micheal Kimmel về giới cũng cho rằng nam tính có ý nghĩa khác nhau trong những thời điểm khác nhau đối với những người khác nhau. Chúng ta hiểu thế nào là một người đàn ông trong nền văn hóa của chúng ta bằng cách đặt những định nghĩa của chúng ta trong sự đối lập với một tập hợp của “những người khác” - những thiểu số về chủng tộc, về giới tính, và trên hết là phụ nữ.
Theo Keneth Clatterbaugh, có ba thành tố cấu thành nên khái niệm về nam tính đó là “vai trò giới của người đàn ông, khuôn mẫu về nam tính, và lý tưởng về giới”. Theo ông, thành tố đầu tiên lý giải đàn ông là gì vì nó là một tập hợp hành vi, thái độ và hoàn cảnh thường thấy ở những người đàn ông thuộc một nhóm xác định nào đó. Thành tố thứ hai liên quan đến cái mà người ta nghĩ về đàn ông: một khuôn mẫu là ý tưởng chung về cái mà hầu hết mọi người đều xem là vai trò giới của đàn ông… Khuôn mẫu dựa trên định nghĩa về đàn ông và vai trò mà đàn ông thực sự đảm nhận không phải bàn cãi…Còn lý tưởng về giới là
“một quan niệm phổ biến cho rằng vai trò giới của người đàn ông nên như thế nào”[10, tr. 14]. Ông cũng lưu ý rằng giữa ba thành tố này có những mối quan hệ tương tác và vì thế những ranh giới rạch ròi là không thể vạch ra, mà là một sự kết hợp biện chứng.
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 1
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 2
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 3
- Văn Hóa Giới Trong Văn Học Trung Đại Việt Nam Trước Nguyễn Đình Chiểu
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 6
- Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới - 7
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
So sánh nam tính với nữ tính, William Jankowiak phát hiện ra rằng sở hữu nữ tính đích thực thì hiếm khi đòi hỏi minh chứng bằng hành động hoặc sự đương đầu với những tình huống nguy hiểm... trong khi đó nam tính lại vẫn phải dựa trên thành tựu đạt được. Đó là một phát hiện liên văn hóa phổ biến về nam tính và nữ tính: nam tính được cho rằng phải là cái đạt được thông qua hành động cạnh tranh với những người đàn ông khác, dù là thuộc thể xác hay tinh thần, trong khi nữ tính thì được liên hệ với những đánh giá về sự hấp dẫn về tình dục, khả năng sinh nở và sự tháo vát trong việc gia đình, nhà cửa.
Như vậy, cả nam tính và nữ tính đều là những tập hợp các biểu hiện đặc trưng về giới (của nam giới hay phụ nữ) được tạo dựng nên, phổ biến, thể chế hóa trong một nền văn hóa, một thời kỳ lịch sử nhất định. Trong cơ sở hình thành nên nam tính và nữ tính, những yếu tố sinh học tuy cũng đóng một vai trò không nhỏ nhưng quan trọng hơn cả là vị trí có tính tương quan của hai giới trong hệ thống chính trị - xã hội - kinh tế - văn hóa. Vì thế, nam tính và nữ tính không phải là những giá trị “nhất thành bất biến” mà có tính lịch sử, tính khu vực. Chúng vừa là những qui ước xã hội về giới áp đặt lên cá nhân từ bên ngoài vừa là ý thức và cách ứng xử theo giới của chính họ.
Quan niệm về nguồn gốc nam – nữ
Trong Kinh thánh cựu ước từng giải thích về nguồn gốc của con người “Thiên chúa sáng tạo ra con người theo hình ảnh của người, có khả năng nhận biết, yêu mến đấng tạo dựng mình, được người đặt làm chủ của mọi vật trên trái đất”. Kinh thánh viết: “Thiên chúa sáng tạo ra con người có nam có nữ. Con người thì phải có nam có nữ. Người nam và người nữ là adam và eva có cùng một bản tính, một phẩm giá như nhau và liên kết với nhau thành một thứ cộng đồng đầu tiên giữa người với người. Sự khác biệt này phát sinh từ chính bản tính
thâm sâu của họ” bởi vì “con người là một sở hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với con người khác thì sẽ không thể sống và phát triển tài năng của mình” (Hiến chế vui mừng và hy vọng).
Cũng theo sách Sáng thế kể về chuyện của adam. Sách Sáng thế mở đầu bằng việc nặn một người nam từ bụi và thổi sự sống vào trong lỗ mũi của anh ấy. Chúa trời tạo ra một khu vườn và đặt người nam trong nom nó cho phép anh ta ăn tất cả loại cây trong vườn trừ cây nhận thức tốt – xấu (Trái cấm). Chúa trời tạo ra người nữ từ xương sườn của anh ta. Người nam đặt tên người nữ là phụ nữ vì người nữ được lấy từ người nam. Chuyện adam và eva là nền tảng học thuyết thiên chúa giáo về tội lỗi đầu tiên. Tội lỗi đến với thế giới qua một con người và chết qua tội lỗi và vì thế cái chết xảy ra với tất cả con người do tội lỗi. Vì eva xúi giục adam ăn trái cấm nên coi người phụ nữ là người mang tội lỗi đầu tiên và đặc biệt chịu trách nhiệm về sự sa ngã. Vậy là ngay từ khởi đầu, có nam thì phải có nữ. Nam nữ kết hợp với nhau thì mới tạo ra sự hài hòa, thống nhất.
Thần thoại Hy Lạp lại giải thích khác về nguồn gốc giới tính. Truyện cho rằng, các vị thần trên đỉnh Ôlimpo đã “tạo ra giống đàn bà, một “loại độc hại” cho giống đàn ông mà đàn ông không sao rứt ra được. Vì thần Dớt nghĩ rằng người đàn bà sẽ luôn là bạn đường của người đàn ông, nhưng luôn gây ra bất hạnh cho họ”. Cách giải thích này thiên về hướng tư duy thần thoại.
Người Trung Hoa thông qua thần thoại Nữ Oa vá trời thì lại cho rằng “đàn ông và đàn bà lấy nhau, tự tạo ra và duy trì giống nòi”. Kinh Dịch : nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh. Sự khác biệt giới tính này đã được triết học cổ đại Trung Hoa nâng lên một bình diện khái quát, đó là sự thống nhất và đối lập giữa âm và dương. Triết lý Trung Hoa dựa trên nguyên lý âm dương để phân cực giới tính. Qua lăng kính nguyên lý này, tính dục càng trở nên huyền ảo hơn. Người Trung Hoa cho rằng nam - dương, nữ - âm, mà vạn vật trong trời đất đều có sự giao hòa khiến cho sinh hóa điều hoà làm nên cuộc sống nên con người cũng phải tương thông với khí trời đất ất thì sức khỏe mới tốt, nếu không, mất sự cân bằng âm dương thì cuộc sống không hài hòa. Lấy chồng, lấy vợ là công việc
đúng đắn nhất trong trời đất. Âm dương kết hợp là căn nguyên cho nhân loại sinh sôi, nảy nở, tạo ra những giá trị mới. Như vậy, ở Trung Hoa công nhận sự tồn tại một cách rõ rệt và còn hiểu được luật bù trừ tồn tại của giới tính.
1. 2. Quan điểm nho giáo về giới
Hơn một ngàn năm chịu đô hộ của người Trung Hoa từ năm 207 TCN đến năm 939 SCN, dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng khá lớn của Trung Hoa về nho giáo Khổng Mạnh. Nho giáo vốn ảnh hưởng lớn đến cách đối nhân xử thế của con người đặc biệt là quan niệm của người nam và người nữ trong xã hội.
Một trong những quan niệm mà nho giáo đề cao phải kể đến là quan niệm tam cương – ngũ thường. Tam có nghĩa là ba, số ba còn cương- theo cách đọc của người Nam Bộ có nghĩa là giềng mối, ngũ là năm, thường là hằng có. Vậy tam cương là ba giềng hay ba mối, gồm: quân thần cang, phụ tử cang, phu thê cang. Ngũ thường là năm hằng, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nho giáo từ đó quy định, “tam cang và ngũ thường là phần nhân đạo của nam phái. Hễ nhân đạo thành thì phù hợp thiên đạo”. Về nam giới, nho giáo quy định người nam giới khi đã trưởng thành thì phải giữ ba điều đạo trọng là quân thần cương, phụ tử cương, phu thê cương. Từ những quan hệ ấy, Kinh lễ đã nêu lên mười đức lớn: vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn, với bạn hữu phải có đức tín. Khi nói đến những đức phải thường xuyên trau dồi, căn cứ vào hai chữ ngũ thường trong Kinh lễ gồm sau chữ: hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa.
Cũng như vậy, nho giáo cũng đặt ra tam cương, ngũ thường dành cho người nam và tam tòng, tứ đức dành cho người nữ:
Về nam giới
Tam cương, ngũ thường: Là khuôn mẫu dạy cho người đàn ông biết kỷ cương, cương thường, đạo lý... Mà còn dạy cho mọi người cái nền tảng của minh triết về nho giáo là: tam cương, ngũ thường. Tam cương là ba điều cần thiết để giáo dục riêng cho người đàn ông biết cách cư xử và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đối với tổ quốc, dân tộc, xã hội và gia đình.
Quân vi thần cương: giềng mối vua tôi, là bổn phận người dân (Tôi, thần dân) đối với vua. Trung với vua, hiếu với dân luôn biểu hiện lòng yêu nước thương nòi. Nho giáo đề cao quân xử, thần tử, Thần bất tử, bất trung: lệnh vua phải tuân, bất tuân thì (chết) bất trung. Vua ở đây tượng trưng cho quốc gia dân tộc. Phải trung với quốc gia dân tộc, chứ không phải trung thành mù quáng theo một ông vua hay dòng họ nhà vua. Trong một dòng họ nhà vua, thí dụ như: nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn,.. chỉ có một số ít ông vua là minh quân, còn phần lớn là hôn quân vô đạo. Nếu trung thành với hôn quân thì đó là ngu trung. Mạnh Tử từ ngàn xưa đã dạy rằng: dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là: Dân là quí, nước nhà là kế đó, vua là nhẹ. Cho nên bề tôi cần phải trung thành với quốc gia dân tộc hơn là trung thành với một ông vua. Lại cũng có câu: quân minh thần trung. Nghĩa là: Vua sáng thì tôi trung; tức nhiên khi gặp vua hôn ám thì bề tôi chỉ giữ lòng trung với quốc gia dân tộc mà thôi.
Phu vi tử cương: Bổn phận người cha đối với con cái, là giềng mối cha con tức là thương yêu, tình nghĩa khoan dung, nuôi dưỡng, giáo dục, nâng đỡ... sao cho các con nên người hữu ích. Trong nho giáo phu vi tử cương rất trọng, bởi câu: cha sinh, mẹ dưỡng. Phải hiếu với cha mẹ. Phải biết nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ mà lo đền đáp. Thuở nhỏ phải nghe lời dạy bảo của cha mẹ, khi lớn lên, cha mẹ đã già yếu thì phải lo bảo dưỡng cha mẹ. Ông Thánh Tăng Tử có nói rằng: “hiếu giả bách hạnh chi tiên, hiếu chí ư thiên tắc phong vũ thuận thời, hiếu chí ư địa tắc vạn vật hóa thành, hiếu chí ư nhân tắc chúng phúc hàm trăn”. Nghĩa là: hiếu là nết đứng đầu trăm hạnh, hiếu cảm đến trời thì gió mưa hòa thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật tốt tươi, hiếu cảm đến người thì phúc lộc thịnh vượng. Phần cha mẹ thì phải hết lòng thương yêu, chăm sóc dạy dỗ con cái cho nên người và làm gương tốt cho con.
Phu vi thê cương: giềng mối chồng vợ, đạo vợ chồng trọng yếu nhất phải là thuận hòa trong tình thương yêu chân thật, dù gặp hoàn cảnh khó khăn cũng phải giữ gìn trọn vẹn như vậy. Vợ chồng sống với nhau, ngoài tình thương yêu, còn phải giữ nghĩa với nhau. Bổn phận người chồng đối với vợ cũng gần như đối
với con cái nhưng tình yêu thương, đùm bọc phải, bao dung, che chở, hướng dẫn... thay vì dạy bảo.
Ngũ thường (năm hằng): là năm điều quan trọng mà đức Khổng Tử cho rằng: làm người phải có nhân, nghĩa, lễ, nghĩa trí, tín mới đáng và mới thực sự là người quân tử.
Nhân: lòng thương người mến vật. Con người thường có hai tình cảm đối ngược nhau: hễ thương thì không ghét, mà ghét thì không thương. Như thế, muốn có lòng nhân thì phải mở rộng lòng thương yêu để cái ghét không có chỗ chen vào. Lòng nhân là căn bản của đạo làm người, là hầu hết các hành tàng. Giữ được nhân thì lúc nào ta cũng được an vui, hạnh phúc. Là người gồm hai phần thể xác và tâm, chữ nhân thật bao la: nhân là tha nhân, nhân tính, nhân nghĩa, nhân đạo và nhân ái...Người có lòng nhân luôn sống hoàn thiện và thương yêu mọi người...
Nghĩa: là cư xử theo lẽ phải (đạo lý), trong cách xử thế, cái nghĩa là quan trọng nhất, nó dẫn dắt con người đến đạo đức. Nghĩa phải đi liền với nhân, có nhân mà không có nghĩa thì đạo đức thiếu hình thức, còn có nghĩa mà thiếu nhân thì đạo đức thiếu tinh thần.
Lễ: phép tắc tốt đẹp trong xử thế. Lễ là mực thước để đo lường tư tưởng, hành động trong khi xử thế. Nó thể hiện sự tôn nghiêm trật tự và hòa hợp trong ý nghĩ và việc làm. Lão Tử có nói: nếu thất đạo thì nên theo đức, nếu thất đức thì nên theo nhân, nếu thất nhân thì nên theo nghĩa, nếu thất nghĩa thì nên theo lễ. Vậy muốn trở về với nghĩa thì phải học lễ trước hết.
Trí: là năng lực hiểu biết. Nhờ có trí mới phân biệt được sáng tối, phải trái, thiện ác. Mục đích của trí là tìm hiểu chân lý, tức là đạo, nên cần phải lo học tập để mở mang trí. Khi trí hiểu biết rõ ràng thì hành động mới tránh được sai lầm.
Tín: là tin tưởng, có lòng tin (vững lòng). Không bắt cá hai tay, không lắt léo, nuốt lời hứa... Trung tín có lòng tin trời đất, có linh hồn, lòng trung tín với tình yêu, vợ chồng con cái, cha mẹ có tin mới có lòng trung tín. Lời nói phải đi
đôi với việc làm. Phải giữ chữ tín và phải quí trọng lời mình nói ra. Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy, nghĩa là: một lời nói ra, xe tứ mã khó đuổi theo kịp. Chữ tín rất quan trọng, nó thể hiện phẩm chất đạo đức của con người mình. Nhân vô tín bất lập, nghĩa là: người mà không có chữ tín thì không làm nên được việc gì.
Tóm lại, phần nhân đạo của nam phái gồm hai phần trọng yếu là: tam cương (trung, hiếu, nghĩa) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tất cả gồm tám chữ, nếu làm trọn vẹn được một chữ thì đủ đạt thần vị, như những bề tôi trung với vua, liều thân với nước, được vua phong thần, đưa về các làng xã làm Thần hoàng, ủng hộ dân chúng và được hưởng cúng tế; nếu làm trọn vẹn được hai chữ thì được phong Thánh, như trường hợp Quan Vân Trường thời Tam Quốc được trọn vẹn hai chữ trung và nghĩa, nên hiển Thánh.
Ngoài ra, trong vai trò của nam giới, Khổng giáo còn đề cao thuyết chính danh mong cho mọi người có tài đức xứng với địa vị của mình. Khổng giáo thường chê những kẻ tiểu nhân và khen ngợi những người (chính nhân) quân tử.
Kẻ tiểu nhân là những người chỉ biết lo những phần thấp kém trong con người. Cầu danh, cầu lợi, mặc tình cho vật dục và ngoại cảnh, thường ham công danh lợi lộc dẫn đến cái hại cho người khác“ích kỷ hại nhân”, bất chấp mọi chuyện sa đọa. Họ là những người chỉ lo xu phụ, không có thực tài, thực đức, không biết thanh lọc và tu luyện tâm hồn...Vì thế nên có một đời sống nội tâm rất là nghèo nàn, lo lắng...
Người quân tử là những người sống cho những phần cao siêu nơi con người, trọng nghĩa, khinh lợi, có hoài bão cao đẹp, luôn luôn hướng thiện, cố gắng tiến đức tu nghiệp, theo đạo và tu đạo, lo sao cho hoàn thiện bản thân mình, sáng suốt, ham học hỏi, biết thức thời, nói ít làm nhiều, thương yêu giúp đỡ mọi người, lúc nào tâm hồn cũng thư thái, ung dung... Tóm lại, người quân tử luôn trau dồi tâm thân, ở thì ở chỗ quảng đại của thiên hạ, đứng thì đứng vào địa vị chính đáng của thiên hạ, đi thì đi trên con đường lớn của thiên hạ, đắc trí thì cùng với nhân dân noi theo đạo nghĩa. Giầu sang không làm siêu lòng, nghèo hèn không làm thay đổi lòng, vũ lực không khuất phục được chí lớn. Như thế mới là