Thứ năm, nhân tố tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư ngoại trong DN được kiểm định chỉ ra tác động đến việc vận dụng KTQT theo hướng là khi có sự tham gia của của các nhà đầu tư ngoại, DN sẽ sử dụng nhiều công cụ kỹ thuật KTQT hơn so với những DN không có sự tham gia của các nhà đầu tư ngoại. Điều này được lý giải bởi hai lý do: một mặt các nhà quản trị và kế toán viên của DN có thể thông qua giao tiếp để học hỏi những kinh nghiệm, kiến thức quản trị từ chính những nhà đầu tư ngoại; mặt khác chính các nhà đầu tư ngoại đặt ra yêu cầu cao hơn về thông tin kế toán được báo cáo so với các nhà đầu tư trong nước (Khaled Abed Hutaibat, 2005).
Thứ sáu, nhân tố ngành nghề kinh doanh/các nhân tố kỹ thuật sản xuất tiên tiến (ATM), kỹ thuật quản trị toàn diện (TQM), kỹ thuật quản trị Just in time … theo lý thuyết ngẫu nhiên đó là các nhân tố quan trọng tác động đến việc vận dụng KTQT. Thông thường trong một số ngành nghề đặc thù như ngành dược, hóa chất … thì NVL đầu vào thường rất đắt và phải luân chuyển liên tục hàng tồn kho, do đó các DN sẽ sử dụng nhiều công cụ kỹ thuật KTQT hơn so với những DN ở các ngành nghề khác. Ngoài ra một số sản phẩm đặc thù giá cả bị khống chế phần nào bởi chính sách bình ổn của Chính phủ, do đó DN trong những ngành này càng cần sử dụng nhiều hơn các công cụ kỹ thuật KTQT nhằm đánh giá, kiểm soát chi phí, đo lường lợi nhuận, hiệu suất của từng dòng, từng loại sản phẩm khác nhau để có thể ra quyết định kịp thời như mở rộng SX, tạm dừng … để có thể đạt được lợi nhuận kỳ vọng của DN (Khaled Abed Hutaibat, 2005, Tuan Zainun Tuan Mat, 2010, Abdel-Kaderand Luther, R., 2008).
Thứ bảy, nhân tố nhận thức về sự bất ổn của môi trường tác động đến việc vận dụng KTQT theo hướng là khi DN đối mặt với sự bất ổn cao của môi trường thì DN có xu hướng áp dụng tổ chức phân quyền, và kết quả là phải vận dụng KTQT ở mức độ phức tạp hơn. Các báo cáo chi tiết và phức tạp hơn từ hệ thống KTQT sẽ giúp giảm bớt sự bất ổn và cải thiện quá trình ra quyết định (Chong and Chong, 1997, trích trong Khaled Abed Hutaibat, 2005).
Thứ tám, khi nghiên cứu về tác động của nhân tố văn hóa DN đến việc vận dụng KTQT, AlperErserim (2012) đã chỉ ra rằng các loại hình văn hóa DN như: văn hóa hỗ trợ; văn hóa cải tiến và văn hóa quản lý theo mục tiêu có tác động đến việc vận dụng KTQT.
Thứ chín, khi nghiên cứu về nhân tố chiến lược kinh doanh, rất nhiều tác giả đã chỉ ra rằng có sự tác động của nhân tố này lên việc vận dụng KTQT (Langfield-Smith 1998b, Baines &Langfield-Smith 2003, Perera et al. 2007, Tuan Zainun Tuan Mat and Malcolm Smith 2014). Điều này có thể được diễn giải là khi theo đuổi lợi thế cạnh tranh, các DN thường vận dụng hệ thống KTQT nhằm hỗ trợ cho các chiến lược ưu tiên đặc biệt, ví dụ như DN có thể vận dụng các công cụ kỹ thuật KTQT như các chương trình cải thiện chất lượng hay chuẩn đối sánh (Benchmarking) để hỗ trợ cho chiến lược khác biệt. Do đó khi các DN lựa chọn hay thay đổi các chiến lược kinh doanh khác nhau thì sẽ dẫn đến việc vận dụng KTQT khác nhau.
Thứ mười, trong DNNVV sự hiện diện của các nhân viên kế toán có đủ trình độ chuyên môn là một nhân tố quan trọng tác động đến việc vận dụng KTQT. Thông thường trong các DN lớn thường có các phòng ban kế toán/tài chính chuyên biệt, do đó họ thường có xu hướng tuyển dụng những nhân viên kế toán có đủ trình độ chuyên môn để thực hiện những báo cáo cũng như thực hiện những tư vấn chuyên nghiệp. Ngược lại, ở những DN nhỏ thì có sự nghi ngờ rằng không phải hầu hết các DN này đều thuê mướn các nhân viên kế toán có đủ trình độ chuyên môn (Kamilah Ahmad, 2012). Các nghiên cứu trước đó cũng chỉ ra rằng có sự tương thích giữa việc hiện diện của các nhân viên kế toán chuyên nghiệp với mức độ hiểu biết cao về vận dụng KTQT trong DN (Ismail and King, 2007); hay sự hiện diện của các nhân viên kế toán chuyên nghiệp trong DNNVV giúp cho sự phát triển của việc vận dụng KTQT trong DNNVV (McChlery et al., 2004).
2.4. MỘT SỐ LÝ THUYẾT NỀN TẢNG CÓ LIÊN QUAN CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VIỆC VẬN DỤNG KTQT
Trong các thập niên vừa qua, có rất nhiều các nghiên cứu trên thế giới dựa trên các lý thuyết được xây dựng nhằm diễn tả các mối liên quan giữa các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong DN. Có thể kể đến một vài lý thuyết tiêu biểu như lý thuyết dự phòng; lý thuyết về mối quan hệ lợi ích – chi phí (cost benefit theory), lý thuyết về mối liên hệ con người (Human relations theory; Mayo 1993, Lewin 1948); lý thuyết về tâm lý học xã hội của các tổ chức (Social psychology of organization theory; MC Gregor 1960; Likert 1961; Vroom 1964); lý thuyết bất định của các tổ chức (Contingency theory of organizations; Burns and Stalker 1961, Lawrence and
Lorsch 1967; Thompson 1967; Galbrith 1973); thông tin kinh tế và lý thuyết đại diện (Information economics and agency theory; Marschak and Radner 1972; Holmstrom 1979); lý thuyết về tâm lý xã hội (Social Psychology; Taylor et al, 2003) …
Sự hình thành các lý thuyết dựa nền tảng nghiên cứu thực nghiệm về kế toán quản trị
Các bản đồ về kế toán quản trị | |
Lý thuyết về mối liên hệ con người Bản đồ A: Nguyên nhân và kết quả (Human relations theory; Mayo 1993; Lewin 1948) của việc lập dự toán ở cấp độ cá nhân Lý thuyết về tâm lý học xã hội của các tổ (Causes and effects of budgeting at the chức (Social psychology of organization theory; MC Gregor 1960; Likert 1961; individual level) Vroom 1964) | |
Lý thuyết bất định của các tổ chức (Contingency theory of organizations; Burns and Stalker 1961; Lawrence & Lorsch1967; Thompson 1967; Galbrith 1973) | Bản đồ B: Nguyên nhân và kết quả của việc lập dự toán ở cấp độ tổ chức và chi nhánh (Causes and effects of budgeting at the organization and subunit levels) Bản đồ C: Thông tin cho việc hoạch định và kiểm soát (Information for planning and control) Bản đồ D: Triển khai sự thay đổi kế toán quản trị (Implementing management accounting change) |
Thông tin kinh tế và lý thuyết đại diện (Information economics and agency theory; Marschak and Radner 1972; Holmstrom 1979) | Bản đồ E: Đo lường hiệu quả hoạt động và khích lệ (Performance measures and incentives) |
Lý thuyết về tâm lý xã hội (Social Psychology; Taylor et al., 2003) | Bản đồ F: Hợp đồng và kiểm soát: quy trình vi mô (Contracting and control: microprocessess) |
Có thể bạn quan tâm!
- Dự Toán Và Kiểm Soát (Budgeting And Control)
- Đo Lường Hiệu Quả Hoạt Động Và Kiểm Soát (Performance Measurement And Control)
- Thực Trạng Những Khó Khăn, Thuận Lợi Khi Vận Dung Ktqt Tại Các Dnnvv Tại Việt Nam
- Áp Dụng Lý Thuyết Xã Hội Học Vào Việc Vận Dụng Ktqt
- Xây Dựng Mô Hình Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Vận Dụng Ktqt Trong Dnnvv
- Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.
Các lý thuyết này ít nhiều đều đã được chứng minh có mối liên hệ và tác động đến quá trình vận dụng KTQT trong DN, từ việc tác động đến việc vận dụng các công cụ kỹ
thuật KTQT như dự toán, công cụ kỹ thuật đánh giá hiệu quả của cá nhân, tổ chức trong DN (kế toán trách nhiệm) đến việc giải thích sự thay đổi trong quá trình áp dụng KTQT tại DN …
Trong nghiên cứu của mình, để phục vụ cho việc xem xét đánh giá các tác động của các nhân tố đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, tác giả chọn ra một số lý thuyết làm nền tảng cho nghiên cứu của đề tài bao gồm: lý thuyết bất định (hay lý thuyết ngẫu nhiên), lý thuyết đại diện, lý thuyết xã hội học và lý thuyết về mối quan hệ lợi ích – chi phí (cost benefit theory).
2.4.1. Lý thuyết bất định
2.4.1.1. Nội dung lý thuyết
Khái niệm về lý thuyết bất định hay “lý thuyết ngẫu nhiên” lần đầu tiên được phát triển trong lý thuyết tổ chức vào giữa thập niên 1960, tuy nhiên phải đến giữa thập niên 1970 thì lý thuyết kế toán mới tiếp tục phát triển lý thuyết này, theo đó lý thuyết bất định đưa ra giả thuyết là một quy trình và cấu trúc hiệu quả của DN là bất định trong bối cảnh của DN (CIMA và Tiessen, 1978, 68). Lý thuyết này giả định rằng hoạt động hiệu quả của DN phụ thuộc vào mức độ phù hợp của cấu trúc DN với các sự kiện ngẫu nhiên xảy ra trước đó (Mullins, 2013). Các nhà lý luận về học thuyết bất định này tuyên bố rằng không có một giải pháp toàn cầu nào có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề của DN, và mức độ hiệu quả của giải pháp còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của DN cũng như môi trường xung quanh (Chenhall et al.,1981).
Theo Mintzberg (1979) thì các nhân tố bất định tác động đến cấu trúc của DN có thể chia làm bốn nhóm: số năm thành lập và quy mô của DN, hệ thống kỹ thuật DN đó sử dụng, môi trường xung quanh và sức mạnh của các mối liên hệ. Còn theo Chenhall et al.(1981) thì yếu tố môi trường và các yếu tố ngẫu nhiên nội tại như công nghệ, quy mô, cấu trúc lại có tác động đáng kể lên các quy trình hoạt động và ra quyết định của DN.
Theo Otley (1980) thì các yếu tố bất định tác động đến thiết kế của DN cũng đồng thời tác động đến các công cụ kỹ thuật KTQT. Sau này khi mở rộng và phát triển thêm lý thuyết bất định, Waterhouse và Tiessen (1983) đã chỉ ra rằng cấu trúc của DN phụ thuộc vào công nghệ và môi trường hoạt động của DN và sự hiệu quả của hệ thống KTQT lại phụ thuộc bất định vào cấu trúc của DN. Việc xác định mối quan hệ giữa
thông tin với công nghệ của DN cũng như môi trường hoạt động có ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ chức cấu trúc của DN. Nếu DN hoạt động trong môi trường kinh doanh không ổn định hay áp dụng công nghệ đòi hỏi thay đổi liên tục thì thông tin chủ yếu là nội bộ và ngược lại, nếu môi trường hoạt động ổn định hoặc công nghệ ít thay đổi thì thông tin là hướng ra bên ngoài. Dưới đây là khung lý thuyết bất định diễn giải mối quan hệ giữa thông tin – cấu trúc – công nghệ:
Công nghệ của DN
Môi trường DN hoạt
Cấu trúc của DN
Quản trị thích hợp từ hệ thống KTQT
Công nghệ thay
đổi liên tục
Môi trường KD bất định
Công nghệ ổn định
Thông tin hướng nội
Mô hình quản lý phân quyền
Môi trường KD
ổn định
Thông tin hướng ngoại
Mô hình quản lý tập quyền
Nguồn: Khung lý thuyết bất định cập nhật của Macy và Arunachalam (1995)
2.4.1.2. Áp dụng lý thuyết bất định vào việc vận dụng KTQT
Lý thuyết bất định đã được phát triển từ giữa những năm 1960, sau đó nó được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu KTQT giữa những năm 1970 đến những năm 1980. Lý thuyết bất định có tầm quan trọng đáng kể để nghiên cứu KTQT vì nó đã thống trị kế toán hành vi từ năm 1975. Hơn nữa, lý thuyết bất định được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu về KTQT của Otley (1980).
Lý thuyết bất định nghiên cứu KTQT doanh nghiệp trong mối quan hệ tương tác với môi trường hoạt động của DN. Nói cách khác một hệ thống KTQT thích hợp với DN
Vận dụng KTQT
trong DN
Quy mô DN
phụ thuộc vào đặc điểm DN và môi trường DN đó đang hoạt động. Điều này cho thấy không thể xây dựng một mô hình KTQT khuôn mẫu áp dụng cho tất cả các DN mà việc vận dụng KTQT vào DN phải tùy thuộc vào đặc thù từng ngành, từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đồng thời phải phù hợp với cơ cấu tổ chức, quy mô DN, trình độ công nghệ sản xuất và chiến lược tổ chức trong từng giai đoạn. Điều này có nghĩa là việc xây dựng một hệ thống KTQT hiệu quả phải thích hợp với từng DN, với môi trường bên trong và bên ngoài mà DN đó đang hoạt động.
Lý thuyết này được rất nhiều các nhà nghiên cứu lựa chọn để nghiên cứu các nhân tố bất định tác động đến sự vận dụng triển khai các kỹ thuật KTQT vào DN (Gordon và Miller, 1976; Hayes, 1977; Waterhouse và Tiessen, 1978; Otley, 1980; Nicolaou, 2000; Gerdin và Greve, 2004). Hầu hết các kết quả nghiên cứu đều chỉ ra rằng không có một mô hình KTQT nào là phù hợp cho tất cả các loại hình DN cũng như trường tồn qua các giai đoạn khác nhau, và các nhân tố tác động, tác động đến việc triển khai vận dụng các kỹ thuật KTQT có thể chia làm hai loại: yếu tố nội tại bên trong DN và yếu tố bên ngoài DN (Walker, 1996; Haldma và Lddts, 2002).
Sau đó Chenhall (2003) tiếp tục thảo luận khung lý thuyết bất định dựa trên khía cạnh chức năng với giả định rằng hệ thống kiểm soát quản trị được phát triển, lựa chọn nhằm mục đích giúp đạt được các chỉ tiêu và mục tiêu đề ra của DN. Hệ thống KTQT trong trường hợp này là bất định đối với các yếu tố như môi trường kinh doanh bên ngoài, công nghệ của DN, cấu trúc của DN, quy mô DN, chiến lược của DN và văn hóa dân tộc.
Sơ đồ diễn giải khung lý thuyết bất định cập nhật của Chenhall (2003):
Môi trường kinh doanh bên ngoài
Công nghệ của DN
Cấu trúc của DN
Chiến lược của DN
Văn hóa dân tộc
2.4.2. Lý thuyết đại diện (Agency theory)
2.4.2.1. Nội dung lý thuyết
Lý thuyết đại diện nhấn mạnh rằng, các cổ đông cần phải sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ đông và người quản lý công ty, bằng cách (i) thiết lập những cơ chế đãi ngộ (compensation mechanisms) thích hợp cho các nhà quản trị, và (ii) thiết lập cơ chế giám sát (supervisory mechanisms) hiệu quả để hạn chế những hành vi không bình thường, tư lợi của người quản lý công ty.
Theo Jensen and Meckling (1976), quan hệ giữa các cổ đông và người quản lý công ty được hiểu như là quan hệ đại diện – hay quan hệ ủy thác. Mối quan hệ này được coi như là quan hệ hợp đồng mà theo đó các cổ đông (những người chủ - principals), bổ nhiệm, chỉ định người khác, người quản lý công ty (người thụ ủy - agents), để thực hiện việc quản lý công ty cho họ mà trong đó bao gồm cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty. Lý thuyết về đại diện cho rằng, nếu cả hai bên trong mối quan hệ này (cổ đông và người quản lý công ty) đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình, thì có cơ sở để tin rằng người quản lý công ty sẽ không luôn luôn hành động vì lợi ích tốt nhất cho người chủ, tức các cổ đông. Từ đó xung đột sẽ phát sinh khi có thông tin không đầy đủ và bất cân xứng giữa chủ thể và đại diện trong công ty. Cả hai bên có lợi ích khác nhau và vấn đề này được giảm thiểu bằng cách sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ đông và người quản lý công ty, thông qua thiết lập những cơ chế đãi ngộ thích hợp cho các nhà quản trị, và thiết lập cơ chế giám sát hiệu quả để hạn chế những hành vi không bình thường, tư lợi của người quản lý công ty.
2.4.2.2. Áp dụng lý thuyết đại diện vào việc vận dụng KTQT
Lý thuyết đại diện giải thích vì sao phải áp dụng hệ thống kế toán trách nhiệm trong DN và đối với các công ty cổ phần, công ty niêm yết … hệ thống KTQT cần cung cấp những thông tin gì để đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư và các cổ đông. Ngoài ra, lý
thuyết đại diện cũng là cơ sở để xây dựng các báo cáo nội bộ trong DN, các báo cáo đánh giá trách nhiệm phù hợp với hệ thống phân quyền trong các DN.
Theo Healy và Palepu (2001) hợp đồng tối ưu giữa nhà quản trị với nhà đầu tư phải bao gồm thỏa thuận thù lao và tiền thưởng của nhà quản trị, các giải pháp dung hòa lợi ích giữa nhà quản trị DN (và chủ DN) với lợi ích của nhà đầu tư bên ngoài. Những hợp đồng này thường yêu cầu DN phải sử dụng thông tin được cung cấp bởi hệ thống KTQT như: hệ thống dự toán ngân sách, thông tin kiểm soát chi phí, phân bổ các nguồn lực ... để nhà đầu tư đánh giá sự tuân thủ những cam kết trong hợp đồng và đánh giá nhà quản trị DN có quản trị các nguồn lực của công ty gắn với lợi ích của nhà đầu tư bên ngoài
+ Thiết lập cơ chế đãi ngô
+ Thiết lập cơ chế giám sát
Quan hệ giữa cô đông – người quản lý
̉ Quan hệ giữa cấp
trên – cấp dưới
Vận dụng KTQT
trong DN
Nguồn: Khung lý thuyết đại diện Healy và Palepu (2001)
2.4.3. Lý thuyết xã hội học (sociological theory)
2.4.3.1. Nội dung lý thuyết
Một cách tổng thể, lý thuyết xã hội học là các khung phân tích dùng để nghiên cứu các hiện tượng xã hội. Khái niệm “lý thuyết xã hội học” bao hàm các ý tưởng về việc xã hội thay đổi và phát triển như thế nào, các phương pháp để giải thích về hành vi xã hội (social behavior), về sức mạnh và cấu trúc xã hội, về giới tính và sắc tộc, về sự hiện đại và hiện tượng xã hội hoá, về các cuộc cách mạnh và các xã hội lý tưởng (Harrington 2005, 1). Trong mỗi nghiên cứu về xã hội học, mỗi chủ đề sẽ được nêu bật hơn so với các chủ đề còn lại, ví dụ như các chủ đề về bản chất của đời sống xã