mục tiêu trên nên việc vận dụng DHTH trong dạy học vật lý ở trường phổ thông là rất tự nhiên. Trước hết nó được thể hiện qua việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học vật lý, cụ thể hoá một số nội dung cơ bản qua chương trình và SGK vật lý.
Các nhiệm vụ của dạy học vật lý bao gồm [19], [28] :
+ Trang bị cho HS những kiễn thức vật lý phổ thông cơ bản, hiện đại, có hệ thống : Các khái niệm vật lý, các định luật, thuyết vật lý, ứng dụng của vật lý trong đời sống và sản xuất, các phương pháp nhận thức phổ biến dùng trong vật lý.
+ Phát triển tư duy khoa học và năng lực sáng tạo của HS.
+ Hình thành thế giới quan duy vật biện chứng.
+ Góp phần GDKTTH&HN, giáo dục thẩm mĩ, GDMT...
Các nhiệm vụ trên luôn gắn liền với nhau, hỗ trợ nhau, được tiến hành đồng thời trong quá trình dạy học vật lý, góp phần tạo ra những con người phát triển hài hoà toàn diện. Tất cả các nhiệm vụ ấy được thông qua trong quá trình dạy học những kiến thức vật lý, trong quá trình học tập của HS. Các nhiệm vụ trên “ tương tác” nhau đãn đến sự phát triển lẫn nhau tức là dẫn tới sự nâng cao chất lượng của quá trình dạy học. Tính phức tạp của việc thực hiện các nhiệm vụ vật lý thể hiện ở chỗ : Phải đồng thời thực hiện 4 nhiệm vụ thành phần trong quá trình dạy học, các nhiệm vụ phát triển tư duy, GDTGQDVBC, GDKTTH&HN, GDMT không được thể hiện tường minh như việc hình thành kiến thức và kỹ năng. Vì vậy việc thực hiện các nhiệm vụ này phụ thuộc vào năng lực của GV do đó GV cần được trang bị các kiến thức liên môn, phương pháp DHTH, tài liệu tham khảo, sự chỉ đạo chuyên môn của các nhà quản lý giáo dục.
Việc vận dụng TTSPTH vào dạy học vật lý còn thể hiện ở chỗ:
Có thể bạn quan tâm!
- Vận dụng tư tưởng sư phạm tích hợp trong dạy học một số kiến thức về “chất khí” và “cơ sở của nhiệt động lực học”(vật lý 10 – cơ bản) nhằm phát triển hứng thú và năng lực vận dụng kiến thức của học sinh - 2
- Tình Hình Nghiên Cứu Và Vận Dụng Dhth
- Dạy Học Tích Hợp Với Việc Phát Triển Hứng Thú Và Năng Lực Vận Dụng Kiến Thức Của Học Sinh
- Thực Trạng Dạy Học Các Kiến Thức Về “ Chất Khí” Và “ Cơ Sở Của Nhiệt Động Lực Học ” Ở Trường Phổ Thông
- Chương Trình Sgk Vật Lý 10 – Cơ Bản Và Nội Dung Kiến Thức Chương “ Chất Khí” Và “ Cơ Sở Của Nhiệt Động Lực Học ”
- Xây Dựng Tiến Trình Dhth Một Số Bài Học Chương “ Chất Khí” Và “ Cơ Sở Của Nhiệt Động Lực Học”
Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.
+ Các nhiệm vụ : Phát triển tư duy, GDTGQDVBC, GD KTTH&HN, GDMT là nhiệm vụ chung của các môn học trong nhà trường vì vậy có thể xem là mục tiêu tích hợp.
+ Việc thực hiện các mục tiêu tích hợp trên dẫn đến liên kết các môn học . Cụ thể khi dạy học vật lý có thể liên kết với các môn : Toán học, sinh học, công nghệ, GDCD…
+ Các phần của môn vật lý cũng có tính độc lập tương đối, vận dụng TTSPTH để liên kết kiến thức trọng nội bộ môn học sẽ nâng cao được chất lượng nắm vững kiến thức, phát triển hứng thú, tư duy và năng lực vận dụng kiến thức của HS.
Những phân tích trên đây dẫn đến kết luận: Cần thiết phải vận dụng DHTH trong dạy học vật lý để phát triển hứng thú và năng lực vận dụng kiến thức của HS.
1.3.6. Các biện pháp vận dụng DHTH để phát triển hứng thú và năng lực vận dụng kiến thức vật lý của HS
1.3.6.1. Một số quan điểm vận dụng DHTH vào dạy học vật lý
Vận dụng DHTH vào thực tế dạy học vật lý ở nước ta còn khá mới mẻ, nhất là chương trình và sách giáo khoa đã được phân hoá sâu sắc, GV chưa được bồi dưỡng về KSPTH và tập quán dạy chỉ dựa vào SGK đã in sâu trong mỗi GV. Do đó để vận dụng có hiệu quả DHTH vào dạy học vật lý cần phải chú ý tới một số quan điểm sau:
- Vận dụng DHTH một cách có ý nghĩa : Đòi hỏi phải lựa chọn nội dung, tình huống có nghĩa với việc học tập của HS, phù hợp với logic khoa học, không gượng ép. Người GV phải nghiên cứu nội dung dạy học, xác định mục tiêu chung và mục tiêu học tập của bài học.
- Không làm cho HS học tập quá tải : Nghiên cứu, lựa chọn kỹ và định rõ thời gian và mức độ cho hoạt động tích hợp, tránh vì hứng thú mà liên kết tri thức quá sâu, rộng sẽ dẫn đến quá tải học tập của HS, làm giảm hiệu quả dạy học.
- Vận dụng hợp lý các PPDH, PTDH để tạo ra hiệu quả tích hợp cao: Vì bản thân các phương pháp dạy học tích cực, các phương tiện dạy học hướng đến việc nâng cao chất lượng dạy học, mang thuộc tính tích hợp các kiến thức, kỹ năng, cảm xúc nhận thức ở HS.
- Tăng cường khai thác mối quan hệ liên môn và liên kết kiến thức trong nội bộ môn học: Định hướng này đã quan tâm đến tích hợp và phù hợp với DHTH.
1.3.6.2. Các biện pháp vận dụng DHTH
a/ Tích hợp các nội dung thực tế vào bài học
Các kiến thức vật lý đều được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất, vào kỹ thuật và công nghệ… phục vụ cho cuộc sống con người. Dạy học vật lý chính là dạy một khoa học đã, đang tồn tại và phát triển, một khoa học sống
- động gắn với môi trường xung quanh. Do vậy dạy học vật lý không thể tách rời với thực tiễn cuộc sống mà phải luôn luôn tạo cơ sở với những tình huống xuất phát và giải trình phù hợp, phải dựa trên đặc điểm nhận thức của HS. Dạy học vật lý gắn với cuộc sống là một hoạt động thống nhất giữa giáo dục, giáo dưỡng với môi trường kinh tế xã hội. Trước hết GV vật lý phải có kiến thức thực tế, am hiểu và có khả năng phân tích, khái quát chỉ ra các mối liên hệ cần thiết giữa kiến thức vật lý với các ứng dụng trong kỹ thuật, công nghệ sản xuất và đời sống. Trong quá trình dạy học cần phải sử dụng phương pháp tích hợp các ví dụ minh hoạ, các sự kiện vật lý kỹ thuật, các thành tựu khoa học trong cuộc sống… vào bài học cho HS hiểu và thấy được mặt thực tế của kiến thức, thấy được khả năng nhận thức và cải tạo thế giới tự nhiên vì cuộc sống của con người.
Các kiến thức thực tế được tích hợp trong từng bài học sẽ đảm bảo cho HS có hứng thú học tập, đảm bảo cho quá trình dạy học gắn bó mật thiết với cuộc sống. Nó góp phần phát triển tối đa năng lực của mỗi HS, giúp họ định hướng nghề nghiệp, biết cảm thụ cái đẹp và khả năng thích nghi nhanh với sự phân công lao động xã hội cũng như hoạt động sáng tạo. Trong dạy học vật lý người GV cần phải tích hợp nội dung GDMT vào một số bài học để trang bị cho HS những tri thức khoa học về môi trường, kinh nghiệm và kỹ năng bảo vệ môi trường. Để mọi người đều có hiểu biết, trách nhiệm và nghĩa vụ phải bảo vệ môi trường làm cho môi trường sống ngày càng tốt đẹp hơn.
b/ Sử dụng các bài tập có nội dung thực tế, kỹ thuật
Bài tập có nội dung thực tế là bài tập đề cập tới những vấn đề liên quan trực tiếp tới đối tượng có trong đời sống, kỹ thuật. Dĩ nhiên , những vấn đề đó cần được thu hẹp và đơn giản hoá đi rất nhiều so với thực tế. Trong những bài tập có nội dung thực tế, những bài tâp mang nội dung kỹ thuật có tác dụng lớn về GD KTTH& HN.
Đây là một trong những biện pháp cơ bản thực hiện nội dung GD KTTH & HN. Nội dung của bài tập có tính kỹ thuật tổng hợp phải được rút ra từ những hiện tượng thực tế, kỹ thuật và đời sống xã hội. Những số liệu của bài tập phải phù hợp với thực tế. Những bài tập này có giá trị giáo dục rất hiệu quả, đồng thời vận dụng tích hợp hiệu quả sẽ rất cao bởi có thể thực hiện tích hợp các kiến thức đơn lẻ từ nhiều bài, nhiều phần, từ các tình huống trong sản xuất. Tích hợp để giáo dục cho HS nhiều khía cạnh: GDKTTH& HN, GDTGQDVBC, GDMT sẽ phát triển được hứng thú học tập, kỹ năng vận dụng kiến thức và năng lực tư duy của HS.
c/Vận dụng các phương pháp DHTC
DHTH dựa trên cơ sở tâm lý học của sự phát triển và các xu hướng sư phạm tích cực về quá trình dạy học. Vì vậy để nâng cao hiệu quả của DHTH cần nghiên cứu vận dụng các PPDH tích cực.
Phương pháp DHTC là các PPDH theo hướng phat huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học. Tính tích cực trong PPDH được dùng với nghĩa là chủ động hoạt động trái với bị động chứ không phải dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
Tính tích cực biểu hiện trong hoạt động nhưng đó phải là những hoạt động chủ động của chủ thể. Vì vậy phương pháp DHTC là cách hướng tới việc học tập chủ động chống lại thói quen học tập thụ động. Phương pháp DHTC đòi hỏi phát huy tính tích cực của cả người dạy và người học. Như đã nói ở trên thực chất phương pháp DHTC đòi hỏi người dạy phải phát huy tính tích cực, chủ động , sáng tạo của người học. Một số phương pháp DHTC đã đuợc đua vào chương trình bồi dưỡng GV thực hiện chương trình và SGK mới, ở đây chúng tôi chỉ nêu một số gợi ý vận dụng.
- Dạy học đặt và giải quyết vấn đề
Theo các nhà lí luận dạy học, có thể có bốn mức độ vận dụng dạy học đặt và giải quyết vấn đề tùy theo đối tượng HS và điều kiện dạy học:
+ Mức 1: GV nêu vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề; HS thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của GV. GV đánh giá kết quả làm việc của HS.
+ Mức 2: GV nêu vấn đề, gợi ý để HS tìm cách giải quyết vấn đề. HS thực hiện cách giải quyết vấn đề. GV và HS cùng đánh giá.
+ Mức 3: GV cung cấp thông tin tạo tình huống, HS phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. HS
thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự trợ giúp của GV khi cần. GV và HS cùng đánh giá.
+ Mức 4: HS tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc của cộng đồng, lựa chọn vấn đề phải giải quyết. HS giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng và hiệu quả.
Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là một phương pháp dạy học tích cực hiện đang được khuyến khích vận dụng ở mọi cấp học, bậc học vì nó phát triển năng lực tự lực, năng lực sáng tạo của người học. Tuy nhiên, để vận dụng hiệu quả phương pháp dạy học này cần phân tích, lựa chọn nội dung dạy học chi tiết, cụ thể và phát huy cao vai trò tổ chức, cố vấn của GV.
- Dạy học kiến tạo
Tư tưởng cơ bản của dạy học kiến tạo là nhấn mạnh vai trò của các kinh nghiệm đã có của người học và sự tương tác giữa người học và môi trường học tập ( ví dụ tập thể lớp học, GV,...). Dạy học kiến tạo hướng đến việc nghiên cứu kinh nghiệm và các quan niệm vốn có của người học, từ đó tổ chức quá trình dạy học sao cho người học tự lực "xây dựng" kiến thức của mình. Dạy học kiến tạo là một phương pháp dạy học tích cực, phối hợp nhiều phương pháp và phương tiện dạy học khác nhau để hỗ trợ người học tự xây dựng kiến thức, qua đó phát triển các năng lực tự lực, sáng tạo. Có thể nêu sơ lược các bước vận dụng dạy học kiến tạo như sau:
Bước 1: Làm bộc lộ quan niệm sẵn có của HS (bước chuyển giao nhiệm vụ). Trong bước này ta cần làm cho HS ý thức được nhiệm vụ học tập. GV giao nhiệm vụ hay đặt HS vào tình huống có vấn đề, qua đó làm bộc lộ những hiểu biết, quan niệm sẵn có của HS, cho họ ý thức được có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề cần giải quyết và xác định được nhiệm vụ học tập của mình.
Bước 2: Làm thay đổi (với những quan niệm sai), bổ sung (những quan niệm chưa đầy đủ), phát triển hiểu biết ban đầu của HS, hình thành kiến thức khoa học mới (bước hành động giải quyết vấn đề). Dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của GV, HS tham gia hoạt động để xây dựng kiến thức cho bản thân. HS chủ động, tự lực, trao đổi, tìm tòi các phương án giải quyết vấn đề, tự tìm cách đánh giá các quan niệm, tự nguyện thay đổi các quan niệm sai của mình để xây dựng kiến thức mới.
Bước 3: Kết luận- Củng cố và vận dụng kiến thức mới (bước hợp thức hoá và vận dụng kiến thức mới). GV hợp thức hoá kiến thức, cho HS vận dụng kiến thức mới vào thực tế hoặc giải quyết thành công các nhiệm vụ thực tế và do đó kiến thức mới sẽ được củng cố, khắc sâu.
- Phương pháp thực nghiệm
Xuất phát từ quan sát và thực nghiệm, nhà khoa học xây dựng một giả thuyết. Bằng phép suy luận lôgíc và toán học các nhà khoa học có thể từ giả thuyết đó rút ra một số hệ quả, tiên đoán một số sự kiện mới trước đó chưa biết đến. Những hệ quả và sự kiện mới đó lại có thể dùng thực nghiệm mà kiểm tra lại được, nếu kiểm tra đó thành công, nó khẳng định một giả thuyết và biến nó thành định luật chính xác.
Các giai đoạn của phương pháp thực nghiệm:
Giai đoạn 1: nêu câu hỏi mà HS chưa biết câu trả lời, cần phải suy nghĩ tìm tòi mới trả lời được.
Giai đoạn 2 : GV gợi ý để HS xây dựng một câu dự đoán ban đầu, dự đoán này có thể thô sơ, có vẻ hợp lý nhưng chưa chắc chắn.
Giai đoạn 3 : Từ giả thuyết suy luận ra một hệ quả : dự đoán một hiện tượng trong thực tiễn, một mối quan hệ giữa các đại lượng vật lý.
Giai đoạn 4 : Xây dựng và thực hiện một phương án thí nghiệm để kiểm tra dự đoán. Nếu phù hợp thì giả thuyết đã nêu trở thành chân lý, nếu không phù hợp thì phải xây dựng giả thuyết mới.
Giai đoạn 5 : ứng dụng kiến thức
Phương pháp thực nghiệm có thể được sử dụng ở các mức độ khác nhau trong từng giai đoạn của bài học, thể hiện ở mức độ HS tham gia vào các giai đoạn của phương pháp thực nghiệm.
- Dạy và học hợp tác trong nhóm nhỏ
Giúp cho các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới, bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề đã nêu ra , thấy mình cần học hỏi thêm cái gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ GV. Trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của học sinh được phát huy và rèn luyện năng lực hợp tác trong tổ chức hoạt động.
- Dạy học theo dự án
Là hình thức dạy học, trong đó HS thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp gắn với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm, kết quả dự án là những sản phẩm như các bài viết, hình ảnh sưu tầm, chương trình hành động cụ thể…
d/ Sử dụng các phương tiện dạy học
PTDH là các dụng cụ mà GV và HS sử dụng trong quá trình dạy học, tạo những điều kiện cần thiết để đạt được các mục tiêu dạy học. Trong qúa trình dạy học 3 phạm trù : Nội dung – Phương pháp – Phương tiện luôn gắn bó với nhau nên lựa chọn và phối hợp tốt 3 yếu tố này thì hiệu quả của quá trình dạy