14
nghiên cứu của Richard (2011). Dựa trên những kết quả nghiên cứu, tác giả tổng hợp thành 3 nhóm nhân tố tác động đến nợ xấu tại NHTM: nhân tố từ môi trường kinh tế, nhân tố từ phía ngân hàng, và nhân tố từ phía khách hàng.
1.2.1. Nhân tố từ môi trường kinh tế
Tổng hợp các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến nợ xấu trước đây, tác giả thấy rằng có sự tương đồng giữa các nghiên cứu và tổng hợp thành 4 nhân tố chính: GDP, Lạm phát, Lãi suất và Khung pháp lý.
GDP
Có bằng chứng thực nghiệm cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng GDP và nợ xấu. Nguyên nhân là tăng trưởng GDP thực tế cao hơn thường được biểu hiện thành thu nhập cao hơn, giúp cải thiện khả năng trả nợ của khách hàng vay. Ngược lại, khi có một sự suy giảm trong nền kinh tế, mức độ nợ xấu có thể tăng lên khi tăng tỷ lệ thất nghiệp và khách hàng vay phải đối mặt với khó khăn hơn để trả nợ của họ (Salas và Suarina, 2002; Rajan và Dhal, 2003; Fofack, 2005; và Jimenez và Saurina, 2005; Louzis, Vouldis và Metaxas, 2011). Nếu nhìn vào những lời giải thích về mối quan hệ ngược chiều này được cung cấp bởi các lý thuyết, có thể nhận thấy sự tăng trưởng trong tổng sản phẩm trong nước thường làm tăng thu nhập, cuối cùng giúp tăng cường khả năng trả nợ của khách hàng vay từ đó góp phần giảm nợ xấu và ngược lại (Fofack, 2005).
Lạm phát
Giữa lạm phát trong nền kinh tế và nợ xấu có mối quan hệ cùng chiều với nhau (Fofack, 2005). Trong khi đó thì Nkusu (2011) đã cho rằng mối quan hệ này có thể cùng chiều hay ngược chiều. Theo tác giả lạm phát ảnh hưởng thuận hay ngược chiều đến khả năng trả nợ của khách hàng vay, lạm phát cao có thể nâng cao khả năng trả nợ của khách hàng vay bởi sự giảm giá trị thực của dư nợ; hơn nữa, lạm phát gia tăng cũng có thể làm suy yếu khả năng thanh toán khoản vay của khách hàng vay bằng cách giảm thu nhập thực tế. Bằng cách nêu bật vai trò của lạm phát trong sự hiện diện của biến lãi suất, Nkusu (2011) giải thích thêm rằng lạm phát trong trường hợp này làm giảm năng lực trả nợ của người vay khi người cho vay điều chỉnh lãi suất cho vay cho phù hợp
15
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Hồ Nguyễn Phương Thúy - 1
- Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Hồ Nguyễn Phương Thúy - 2
- Sự Cần Thiết Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Nợ Xấu Tại Các Ngân
- Thực Trạng Nợ Xấu Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Tình Hình Chung Về Nợ Xấu Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Tốc Độ Tăng Trưởng Gdp Và Tỷ Lệ Nợ Xấu Ngành
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
lợi nhuận thực của mình. Vì vậy, mối quan hệ giữa lạm phát và nợ xấu có thể là cùng chiều hay ngược chiều tùy thuộc vào hoạt động của nền kinh tế.
Lãi suất
Lãi suất cho vay là một trong những yếu tố kinh tế vĩ mô quyết định chính đến các khoản nợ xấu. Có một bằng chứng thực nghiệm về mối tương quan giữa lãi suất cho vay và khoản nợ xấu (Nkusu, 2011; Adebola, Yusoff, và Dahalan, 2011; Louzis, Vouldis và Metaxas, 2011; Berger và Boye, 2007). Sự gia tăng lãi suất làm suy yếu khả năng trả nợ của người vay do các khoản nợ xấu có mối tương quan cùng chiều với lãi suất (Nkusu, 2011). Nếu như chính sách lãi suất là đóng vai trò rất quan trọng trong tốc độ tăng trưởng nợ xấu ở một quốc gia hay một nền kinh tế, thì Hoque và Hossain (2008) đã kiểm tra vấn đề này và theo họ nợ xấu liên quan chặt chẽ với lãi suất cao, làm tăng gánh nặng của khách hàng vay và là nguyên nhân vỡ nợ. Espinoza và Prasad (2010) đã thử nghiệm các yếu tố kinh tế vĩ mô quyết định các khoản nợ xấu trong hệ thống ngân hàng GCC và theo họ lãi suất cho vay tăng cao làm tăng xác suất vỡ nợ nhưng họ đã không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê. Bloem và Gorter (2001) đã nghiên cứu nguyên nhân và giải pháp xử lý nợ xấu, theo họ sự thay đổi thường xuyên trong chính sách lãi suất làm tăng các khoản nợ xấu. Theo Dash và Kabra (2010) các ngân hàng có chính sách cho vay với lãi suất cao phải chịu các khoản nợ xấu lớn hơn. Collins và Wanju (2011) cũng cho thấy lãi suất là yếu tố chính thúc đẩy phát sinh các khoản nợ xấu.
Khung pháp lý
Ranjan và Dhal (2003) phát biểu rằng sự phát triển biền vững của tín dụng, môi trường tín dụng tốt, điều kiện kinh tế vĩ mô và kinh doanh khả quan dẫn đến nợ xấu giảm đi. Trong nó Báo cáo thường niên (2010) Ngân hàng trung ương của Kenya lưu ý rằng quản lý nợ xấu của các ngân hàng vẫn là một lĩnh vực quan tâm. Các khoản nợ xấu của các ngân hàng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá sức khỏe tài chính của lĩnh vực ngân hàng. Nó phản ánh giá trị tài sản, rủi ro tín dụng và thẩm quyền trong việc phân bổ nguồn lực cho các ngành sản xuất. Ahmed (2010) cho rằng kể từ khi có chế độ cải cách để có sự tăng trưởng bền vững nhằm cải thiện chất lượng tài sản của vực ngân hàng. Để hạn
16
chế nợ xấu, Ngân hàng thương mại đã dự kiến đổi mới lớn nhất trong hoạt động thông qua việc giới thiệu các khái niệm mới như tiêu chuẩn kế toán thận trọng và tỷ lệ an toàn vốn.
1.2.2. Nhân tố từ phía ngân hàng
Nợ xấu không những chịu ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô mà nó còn chịu tác động của nhân tố nội tại phát sinh từ Ngân hàng. Nghiên cứu nhân tố chủ quan từ phía Ngân hàng, tác giả đề cập đến 5 nhân tố: qui mô ngân hàng, quản lý tín dụng, tăng trưởng tín dụng, hệ thống thông tin, rủi ro đạo đức.
Qui mô ngân hàng
Quy mô ngân hàng cũng được một số nhà nghiên cứu đưa vào mô hình để kiểm định tác động của nó tới nợ xấu. Nghiên cứu của Salas và cs (2002); Hu và ctg (2004); Rajan và cs (2003); Louzis D.P. và cs., 2012. Cả ba nghiên cứu Salas và cs (2002); Hu và ctg (2004); Rajan và cs (2003) đều có chung kết luận là qui mô ngân hàng quan hệ tỷ lệ nghịch với nợ xấu. Lý giải cho kết quả này Salas và cs (2002) và Rajan và cs (2003) cho rằng, quy mô ngân hàng càng lớn thì sản phẩm ngân hàng càng đa dạng, thu nhập từ các sản phẩm phi lãi suất cao tạo nguồn cho ngân hàng kiểm soát chi phí tốt. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của Louzis D.P và cs (2012) cho kết quả ngược lại, ngân hàng có quy mô càng lớn càng có tâm lý ỉ lại “quá lớn để phá sản- Too Big To Fail” và tỷ lệ nợ xấu càng cao.
Quản lý tín dụng
Giám sát thường xuyên về chất lượng cho vay, có thể có một hệ thống cảnh báo sớm để cảnh báo cơ quan quản lý về tình hình căng thẳng ngân hàng trong tương lai là điều cần thiết để đảm bảo một hệ thống tài chính lành mạnh và ngăn chặn các cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống (Agresti et al., 2008). Nhiều ngân hàng bị mất tiền vì họ không theo dõi tài sản của người vay, và không nhận ra dấu hiệu cảnh báo sớm khi ngân hàng không chú ý đến khách hàng vay và những gì họ đang làm với số tiền vay. Mục tiêu của giám sát khoản vay là để kiểm tra xem cơ sở để các quyết định cho vay được thực hiện tiếp tục hay không và để xác định vốn vay được sử dụng đúng với mục đích đã cam kết. Berger và DeYoung (1997) tìm ra nhiều nhân tố từ phía Ngân hàng tác
17
động đến nợ xấu trong đó nhân tố quản lý yếu kém đã tác động tiêu cực đến nợ xấu. Các dấu hiệu là kỹ năng quản lý yếu kém trong xếp hạng tín dụng, thẩm định động động kinh doanh, tình hình sử dụng vốn của khách hàng nhằm hạn chế việc phát sinh nợ quá hạn. Đối với trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích dẫn đến thua lỗ, Ngân hàng sẽ thu hẹp tín dụng bằng cách ngừng cấp tín dụng để bảo toàn số vốn vay hoặc cho vay với những điều kiện khắt khe hơn; nếu trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích nhưng vẫn còn thiếu hụt vốn mà dự án đầu tư có nhiều khả thi thì Ngân hàng tiếp tục bổ sung nhu cầu vốn thiếu hụt để doanh nghiệp hoàn thành dự án của mình.
Bên cạnh đó, các ngân hàng muốn hạn chế nợ xấu thì ngay khâu đầu tiên trong qui trình cấp tín dụng phải thực thiện hết sức chặt chẽ các chỉ tiêu về đánh giá khách hàng: đánh giá về năng lực tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh cũng như khả năng trả nợ của khách hàng.
Theo Standards & Poor, XHTD là những ý kiến đánh giá hiện tại về rủi ro tín dụng, chất lượng tín dụng, khả năng và thiện ý của chủ thể đi vay trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính một cách đầy đủ và đúng hạn.
Theo Moody's, XHTD là những ý kiến đánh giá về chất lượng tín dụng và khả năng thanh toán nợ của chủ thể đi vay dựa trên những phân tích tín dụng cơ bản và biểu hiện thông qua hệ thống ký hiệu Aaa-C.
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng là một quy trình đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của một khách hàng đối với một ngân hàng như việc trả lãi và trả gốc nợ vay khi đến hạn hoặc các điều kiện tín dụng khác nhằm đánh giá, xác định rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng đối tượng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn của khách hàng tại thời điểm chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng.
Tăng trưởng tín dụng
Các nghiên cứu chỉ ra rằng các khoản nợ xấu có liên quan đến tăng
trưởng tín dụng nhanh chóng. Keeton (1999) đã sử dụng dữ liệu từ các ngân
18
hàng thương mại tại Hoa Kỳ (1982-1996) và một vector mô hình tự hồi quy cho thấy sự kết hợp này giữa tăng trưởng tín dụng nhanh chóng và nợ xấu. Sinkey và Greenwalt (1991) cũng đã nghiên cứu các ngân hàng thương mại lớn ở Mỹ và phát hiện ra rằng việc cho vay quá mức giải thích cho tỷ lệ các khoản nợ có khả năng mất vốn cao . Salas và Saurina (2000) nghiên cứu các ngân hàng Tây Ban Nha đã phát hiện ra rằng tăng trưởng tín dụng có liên quan đến khoản nợ xấu. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Bercoff, Giovanni và Grimard (2002) cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng giải thích phần nào tỷ lệ nợ xấu. Tương tự như vậy, Weinberg (1995) sử dụng dữ liệu về tốc độ tăng trưởng tổng dư nợ cho vay Mỹ 1950-1992 cho thấy một mô hình gia tăng các khoản nợ xấu trong việc gia tăng các khoản cho vay.
Hệ thống thông tin
Kwambai & Wandera (2013) trong nghiên cứu các ảnh hưởng của sự chia sẻ thông tin trong hoạt động cho vay tại các Ngân hàng thương mại cổ phần ở Kênia chỉ ra rằng nhân tố về thông tin tín dụng có mối quan hệ mạnh mẽ với nợ xấu, nhân tố này được khai thác triệt để nhằm tận dụng những ưu điểm, hạn chế khuyết điểm góp phần giảm thiểu nợ xấu trong danh mục nợ xấu.
Thông tin bất đối xứng mô tả các điều kiện trong đó thông tin có liên quan không được biết đến từ tất cả các bên tham gia trong một cam kết. Nó đã được sử dụng rộng rãi để giải thích sự đa dạng về khái niệm, bao gồm cả những người trong điều kiện thị trường khác nhau (Misukin, 1991).
Rủi ro đạo đức
Fernandez et al., và Waweru & Kalani (2009) thấy rằng hầu hết cuộc khủng hoảng ngân hàng một phần có liên quan đến việc quản lý không đầy đủ các rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng và thiếu năng lực của các cán bộ tín dụng. Kết quả nghiên cứu của Richard (2011) về các nhân tố tác động đến nợ xấu tại các NHTM Tanzania chỉ ra rằng tất cả các nhân viên yếu kém trong công tác thẩm định, theo dõi và giám sát khách hàng vay sẽ làm ảnh hưởng đến nợ xấu. Berge và cs (1997) cho thấy các yếu tố: kém may mắn, quản trị tồi và vi phạm đạo đức nghề nghiệp đã tác động tiêu cực tới nợ xấu NHTM Mỹ giai
19
đoạn 1985-1994. Tại châu Phi, Brownbridge (1998) cho rằng rất nhiều các khoản nợ xấu tại các ngân hàng là do rủi ro đạo đức.
1.2.3. Nhân tố từ phía khách hàng
Richard ( 2011) trong nghiên cứu về các nhân tố gây ra nợ xấu ở các ngân hàng thương mại Tanzania và chiến lược để giải quyết chúng, đã tìm ra 11 nhân tố tác động, trong đó có những nhân tố thuộc về khách hàng như sự thiếu minh bạch của người vay, hoạt động kinh doanh không mang lại hiệu quả, vốn vay sử dụng sai mục đích, trình độ quản lý của người vay.
Tính minh bạch của số liệu, chứng từ
Vì mong muốn tiếp cận được nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ cho các dự án đầu tư của mình, khách hàng cố tình không trung thực trong các số liệu trong báo cáo tài chính. Nghiêm trọng hơn là khách hàng sử dụng chứng từ khống qua mặt Ngân hàng làm cho Ngân hàng thẩm định sai lầm về tài sản đảm bảo, khả năng hoàn trả nợ vay, hiệu quả của kế hoạch kinh doanh.
Cam kết sử dụng vốn đúng mục đích
Vạch ra các chiến lược kinh doanh hợp lý nhưng lại sử dụng vốn theo mục đích khác. Tâm lý của khách hàng là càng vay được nhiều vốn càng tốt, sử dụng số vốn đó đầu tư vào các lĩnh vực có rủi ro cao để có tỷ suất sinh lợi cao. Do đó, khi có bất kỳ cú sốc kinh tế nào, khách hàng không thể ứng phó kịp thời làm giảm khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Khách hàng phán đoán không chính xác xu hướng phát triển của thị trường, mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh mà không có sự đánh giá kỹ lưỡng. Chính những điều này rất dễ nảy sinh nợ xấu do khả năng chi trả của khách hàng bị suy giảm trầm trọng theo sự tụt dốc của thị trường.
Hiệu quả của dự án, kế hoạch kinh doanh
Hầu hết nguồn trả nợ cho các khoản vay đều nằm trong lợi nhuận mà các dự án đầu tư mang lại. Nếu như dự án không mang lại lợi nhuận, khách hàng khó có thể hoàn trả nợ đúng thời hạn cũng như số vốn vay ban đầu. Mặc dù khách hàng có thể tính toán được khả năng sinh lời của dự án, có thể dự đoán được các biến cố có thể xảy ra. Nhưng không thể lường trước được tất cả những thay đổi của các yếu tố khách quan của nền kinh tế. Điều này cũng là một trong
20
những nhân tố góp phần tạo nên sự gia tăng của nợ xấu.
Năng lực quản lý, điều hành của khách hàng
Do trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề kinh tế, năng lực quản lý nên khả năng xảy ra tổn thất với Ngân hàng là rất lớn. Có một số khách hàng sử dụng vốn Ngân hàng không đúng mục đích, vốn bị chiếm dụng quá nhiều, khó có khả năng ứng phó kịp thời khi thị trường biến động. Có một số khách hàng kinh doanh quá nhiều, không tập trung, và phần lớn dựa vào vốn vay từ Ngân hàng nên khi có những biến động vượt quá năng lực quản lý của mình dẫn đến thua lỗ không trả được nợ cho Ngân hàng.
Như vậy, thông qua tổng kết các nghiên cứu, tác giả thấy rằng tác động của các nhân tố là khác nhau giữa các quốc gia. Tuy nhiên, vẫn có sự tương đồng giữa các quốc gia về sự tác động của các nhân tố: nhân tố vi mô, nhân tố vĩ mô.
Đa phần các nghiên cứu đều tập trung vào 2 nhân tố là nhân tố ngân hàng và nhân tố kinh tế vĩ mô. Tác giả cũng dựa trên những nghiên cứu đó, nhưng dựa vào nhận định chủ quan kết hợp với tình hình thực tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Cuối cùng, tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu sơ bộ gồm 3 nhân tố tác động như sau:
Nhân tố từ phía Ngân hàng
Nhân tố từ phía khách hàng
NỢ XẤU
Nhân tố từ môi
trường kinh tế
Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
21
1.3. Kinh nghiệm vận dụng các nhân tố tác động nhằm hạn chế nợ xấu tại ngân hàng thương mại
Hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam đã trải qua thời kỳ khó khăn và nhiều thách thức từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đến nay. Một trong những vấn đề trọng tâm hiện nay là hạn chế và phòng ngừa nợ xấu của hệ thống Ngân hàng nhằm lành mạnh hóa các hoạt động của hệ thống NHTM. Vì thế, việc xem xét kinh nghiệm của các quốc gia có nguồn gốc nợ xấu tương đồng và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
1.3.1. Kinh nghiệm của NHTM Trung Quốc
Hoạt động tín dụng tại Trung Quốc cho thấy các khoản Nợ xấu của ngân hàng thương mại tại nước này thường xuất phát từ:
Dư nợ tín dụng tăng quá nhanh, trong khi cho vay những lĩnh vực ngoài thị trường truyền thống và dựa vào thế chấp, người bảo lãnh, danh tiếng – là những nguồn trả nợ thứ yếu – mà không đánh giá nguồn trả nợ chính. Trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng có nhiều hạn chế so với tiêu chuẩn.
Coi nhẹ các tiêu chuẩn an toàn tín dụng, như: cho vay với kỳ vọng tài sản hình thành từ vốn vay sẽ có giá trị; tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản thế chấp quá cao; Cho vay đảm bảo bằng chính cổ phiếu ngân hàng mình; Cơ cấu khoản vay kém hiệu quả, cho vay quá khả năng chi trả; Không văn bản hóa thỏa thuận cụ thể về mục đích và cách sử dụng khoản vay, kế hoạch nguồn trả nợ.
Giám sát sau giải ngân kém; không giám sát thỏa đáng các khoản cho vay xây dựng, như đi thực địa, tiến độ rút vốn vay, thanh tra,…Không có chứng từ địa chỉ giao dịch với khách hàng vay, hồ sơ pháp lý không đầy đủ; Không thu thập, xác minh và phân tích các báo cáo trong suốt kỳ hạn hiệu lực khoản vay; Không nhận biết được các dấu hiệu cảnh báo như chu kỳ luân chuyển tồn kho và khoản phải thu chậm lại, chu kỳ các khoản phải trả dài ra và phát sinh lỗ ròng trong kinh doanh.
Nhận biết và xử lý sớm, hiệu quả các nguyên nhân trên là điều kiện quan trọng nhất để giảm thiểu rủi ro tín dụng, nguồn gốc nợ xấu của các ngân hàng thương mại ở Trung Quốc.