NHTM không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng theo hướng đảm bảo thuận tiện, an toàn, nhanh chóng và kịp thời.
+ Đối với nguồn vốn huy động định kỳ.
Nguồn vốn huy động định kỳ gồm : tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và chủ thể kinh tế khác; tiền gửi tiết kiệm của dân chúng; vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá (chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu)…Đối với loại nguồn vốn này, khách hàng không được rút trước hạn, trừ trường hợp nếu được NHTM quy định cho rút trước hạn, thì không được tính lãi hoặc tính lãi theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Các quy định nói trên, nhằm đảm bảo tính ổn định cho NHTM sử dụng nguồn vốn này.
Do đó, nguồn vốn huy động định kỳ thường có tính ổn định, được NHTM sử dụng chủ yếu cho vay trung và dài hạn, đây là điểm khác biệt so với nguồn vốn huy động hoạt kỳ (nguồn vốn ngắn hạn). Đối với nguồn vốn huy động hoạt kỳ, các NHTM chủ yếu sử dụng để cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên, trên thực tế tuỳ tình hình kinh tế vĩ mô, NHTW của từng nước cho phép các NHTM được sử dụng một tỷ lệ nhất định từ nguồn vốn huy động hoạt kỳ để cho vay trung - dài hạn đối với nền kinh tế.
Đối với Việt Nam trước đây trong điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định, NHTW cho phép các NHTM được sử dụng tối đa 40% nguồn vốn huy động hoạt kỳ (nguồn vốn ngắn hạn) để cho vay trung - dài hạn đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, các năm gần đây do diễn biến bất thường của kinh tế vĩ mô, nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của NHTM, nên tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 30%.
Do quy định các NHTM chỉ được phép sử dụng một tỷ lệ nhất định từ nguồn vốn huy động hoạt kỳ để cho vay trung - dài hạn đối với nền kinh tế, nên các NHTM thường chú trọng việc thu hút nguồn vốn trung - dài
hạn. Tuy nhiên, để huy động được nguồn vốn định kỳ (nguồn vốn trung - dài hạn), ngoài các giải pháp từ phía NHTM (lãi suất hấp dẫn; hình thức huy động vốn định kỳ phải được đa dạng hoá; làm tốt công tác tiếp thị; quản trị điều hành ngân hàng có hiệu quả…), đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô phải được ổn định lâu dài, lạm phát ở mức thấp, giá trị của đồng nội tệ ổn định…
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao hiệu quả quản lý của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 1
- Nâng cao hiệu quả quản lý của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2
- Vai Trò Quản Lý Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Quản Lý Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Thanh Tra, Giám Sát Đối Với Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại .
Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.
- Nguồn vốn đi vay
Trong quá trình hoạt động, có lúc nhu cầu vay vốn của khách hàng tăng lên, nhưng NHTM không đủ nguồn vốn để đáp ứng cho vay kịp thời hoặc NHTM khó khăn về thanh khoản (do phải đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc chi trả của khách hàng), NHTM có thể đi vay : vay NHTM, TCTD khác; vay trên thị trường tiền tệ; vay từ các tổ chức tài chính nước ngoài; vay NHTW…Vốn đi vay thường chiếm tỷ trọng không lớn, nhưng có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thiết lập sự cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn của các NHTM, góp phần đảm bảo cho NHTM hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng - thị trường 2 hoặc vay từ NHTW dưới các hình thức : chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ có giá; cho vay thế chấp; cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Điều lưu ý ở đây, NHTW chỉ là người cho vay cuối cùng đối với NHTM và tùy thuộc vào mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ nhất định mà NHTW thực hiện việc nới long hoặc thắt chặt điều kiện tín dụng đối với các NHTM .
Đối với những NHTM có quy mô vừa và nhỏ, khó cạnh tranh với các NHTM có quy mô lớn trong việc huy động vốn do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân về chi phí huy động thường tăng lên so với mức
chi phí bình quân của các NHTM. Nên các NHTM này đi vay NHTM, TCTD khác (vay trên thị trường liên ngân hàng - thị trường 2) để bổ sung nguồn vốn cho vay khách hàng là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và chủ thể kinh tế khác (cho vay trên thị trường 1). Nếu NHTW không kiểm soát chặt chẽ việc NHTM đi vay trên thị trường liên ngân hàng - thị trường 2 là chủ yếu để cho vay trên thị trường 1, sẽ dẫn đến rủi ro cho NHTM khi tình hình kinh tế vĩ mô trong nước bất ổn hoặc do khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới tác động.
Bản chất nguồn vốn vay trên thị trường 2 hoặc vay từ NHTW, là nhằm để bổ sung nguồn vốn tạm thời thiếu hụt trong thanh toán hoặc khó khăn về thanh khoản của NHTM. Thực tế tại các nước trên thế giới đã cho thấy khi NHTW không kiểm soát hoạt động vay và cho vay lẫn nhau giữa các NHTM, để NHTM có tỷ lệ vay từ ngân hàng khác từ trên 50% trở lên, khi ngân hàng này khó khăn có nguy cơ bị phá sản, không chỉ ảnh hưởng đến ngân hàng cho vay mà nó lây lan đến hệ thống các ngân hàng.
- Huy động nguồn vốn khác.
Ngoài các nguồn vốn chủ yếu nói trên, các NHTM còn huy động vốn thông qua : vốn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính, các nhà tài trợ của Chính phủ….để tài trợ các chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội; vốn khác (phát sinh khi NHTM làm trung gian thanh toán, đại lý chuyển tiền…).
(2)- Nghiệp vụ tín dụng và đầu tư (Nghiệp vụ sử dụng vốn/Nghiệp vụ tài sản có)
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngoài việc tính toán mức dự trữ cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng, nguồn vốn còn lại các NHTM phân bổ, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế dưới các hình
thức cấp tín dụng và đầu tư theo nguyên tắc an toàn và sử dụng vốn hiệu quả.
- Dự trữ.
Trong quá trình hoạt động, các NHTM tính toán và dự trữ ở mức tối thiểu cần thiết (dưới hình thức tiền mặt, tiền gửi tại các ngân hàng khác, tiền gửi tại NHNN, các chứng khoán có giá ngắn hạn có tính lõng cao có thể chuyển sang tiền mặt nhanh chóng, tiền trong quá trình thu…) để đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên cho khách hàng.
Đây là các tài sản có không sinh lời hoặc sinh lời ở mức rất thấp, được các NHTM duy trì nhằm : đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng gửi tiền, bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ, thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN, chi phí cho hoạt động của NHTM…Mức dự trữ của các NHTM tăng hay giảm tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ giữa thanh toán và chuyển khoản, tính thời vụ của các khoản chi trả tiền mặt. Hiện nay, theo kết quả tính toán của chuyên gia ngân hàng, thì mức dự trữ dưới hình thức tiền mặt chiếm khoảng từ 15% đến 30% tổng tài sản Có của các NHTM. Trong thời gian đến, NHNN triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt, khoản mục dự trữ dưới hình thức tiền mặt tại các NHTM có xu hướng ngày càng giảm xuống.
- Nghiệp vụ tín dụng.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng của NHTM đối với khách hàng là cá nhân, tổ chức kinh tế; đây là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ tài sản có sinh lời và là nghiệp vụ chủ yếu để tạo ra lợi nhuận của NHTM. Trong tổng thu nhập của NHTM, thì thu nhập từ hoạt động cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất so với thu nhập từ các hoạt động khác của NHTM. Điều đó, đồng nghĩa với việc hoạt động cho vay các cá nhân và tổ chức kinh tế thường xuyên phát sinh nhiều rủi ro và có mức rủi
ro cao nhất trong tổng tài sản có sinh lời của các NHTM. Rủi ro tín dụng có thể do nguyên nhân khách quan từ môi trường kinh tế (do tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới; thiên tai, dịch bệnh, lũ lụt…) và nguyên nhân chủ quan từ phía NHTM (thiếu kiểm tra, kiểm soát trong cho vay; thực hiện quy trình cho vay, quy thẩm định tín dụng thiếu chặt chẽ; rủi ro đạo đức ….).
Chính từ các đặc điểm nổi bậc nói trên, mà hoạt động cho vay khách hàng là cá nhân, tổ chức kinh tế luôn được các nhà quản lý, điều hành NHTM chú ý và quan tâm hàng đầu trong quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện quản trị tài sản có. Nó được theo dõi, quản lý sát sao nhằm phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế và có biện pháp xử lý khi có rủi ro xảy ra.
Hoạt động cho vay của các NHTM có liên quan chặt chẽ tới các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế từ sản xuất kinh doanh đến tiêu dùng. Do đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ cho vay ngày càng được đa dạng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện gia tăng lợi nhuận cho NHTM. Có thể phân loại cho vay của các NHTM theo các hình thức sau. Nếu phân loại cho vay theo thời hạn, cho vay bao gồm : cho vay ngắn hạn có thời hạn từ 1 năm trở xuống, cho vay trung hạn có thời hạn từ trên 1 năm cho đến 5 năm; cho vay dài hạn có thời hạn trên 5 năm. Nếu phân loại theo phương thức cho vay, cho vay bao gồm
: cho vay từng lần (cho vay theo món), cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi. Nếu phân loại cho vay theo hình thức đảm bảo, bao gồm : cho vay có đảm bảo và cho vay không có đảm bảo...
- Đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, để tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế đa dạng hoá hoạt động, tìm kiếm lợi nhuận; thì bên cạnh hoạt động
chính, luật pháp còn cho phép các tổ chức kinh tế được thực hiện nghiệp vụ đầu tư. Theo nghĩa rộng thì : Đầu tư là một hình thức bỏ vốn vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm thu được những lợi ích kì vọng trong tương lai. Theo nghĩa hẹp thì : Đầu tư là hình thức bỏ vốn để kiếm lời ([9], tr 250). Hoạt động đầu tư là hoạt động dựa trên nguyên tắc lời cùng hưởng, lỗ cùng chịu.
NHTM cũng là một tổ chức kinh tế, bên cạnh thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, luật pháp còn cho phép các NHTM được thực hiện nghiệp vụ đầu tư tạo ra tài sản có sinh lời nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Đầu tư của NHTM bao gồm : đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính.
Đối với đầu tư trực tiếp các NHTM chỉ được sử dụng vốn của mình (vốn điều lệ và quỹ dự trữ) để đầu tư trực tiếp dưới các hình thức : góp vốn liên doanh, liên kết; mua cổ phần của DN hay của các TCTD khác; cấp vốn thành lập công ty con (công ty cho thuê tài chính, công ty mua bán nợ, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty đầu tư…).
Đối với đầu tư tài chính (đầu tư chứng khoán), đây là hình thức đầu tư linh hoạt, NHTM có thể dễ dàng thay đổi danh mục đầu tư theo hướng có lợi cho mình. Do đó, đây là hình thức đầu tư được các NHTM sử dụng phổ biến. Trong điều kiện thị trường chứng khoán phát triển, các NHTM đầu tư vào chứng khoán (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu NHTW…) không chỉ tạo ra các khoản mục đầu tư có mức sinh lời ổn định cho NHTM, mà còn tạo ra khoản dự trữ có tính thanh khoản cao nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán phát sinh ngoài kế hoạch của NHTM. ([9], tr 250)
(3)- Nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng
Nền kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi các dịch vụ Ngân hàng cũng phải phát triển đa dạng, phong phú và chất lượng nâng lên, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Kinh doanh dịch vụ ngân
hàng được xem là nghiệp vụ trung gian của NHTM, đây là hoạt động mang lại thu nhập tương đối an toàn cho các NHTM, ngoài thu nhập từ tín dụng và đầu tư với nhiều rủi ro và độ an toàn không cao.
Trong chiến lược phát triển của mình, NHTM nào muốn nhanh chóng trở thành ngân hàng “đa năng”, phát triển toàn diện và bền vững, trong đó cần chú trọng đến việc phát triển kinh doanh dịch vụ ngân hàng, đây là lĩnh vực ít rủi ro và mang lại thu nhập đáng kể cho NHTM bên cạnh hoạt động tín dụng và đầu tư. Xu hướng ngày nay, hầu hết các ngân hàng đều chú trọng đến việc phát triển kinh doanh dịch vụ ngân hàng trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại.
Nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú như : dịch vụ ngân quỹ; dịch vụ chuyển tiền giữa các ngân hàng trên cùng địa bàn (cùng địa phương) hoặc khác địa bàn (từ địa phương này sang địa phương khác) hoặc từ nước này sang nước khác; dịch vụ thanh toán (thanh toán nội địa và thanh toán quốc tế); dịch vụ thu hộ, chi hộ; dịch vụ uỷ thác; dịch vụ tư vấn tài chính, đầu tư; dịch vụ ngân hàng điện tử; dịch vụ thẻ; dịch vụ kiều hối...
Nhìn chung, để thu hút ngày càng nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, các NHTM không ngừng chú trọng đổi mới phát triển việc cung cấp dịch vụ ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng. Với các dịch vụ cung ứng cho khách hàng, có loại dịch vụ NHTM thu phí, có loại dịch vụ NHTM được hưởng hoa hồng, có loại dịch vụ NHTM ưu đãi, khuyến mãi khách hàng bằng cách không thu phí. Đối với loại dịch vụ NHTM không thu phí đối với khách hàng, nhưng đổi lại NHTM có điều kiện mở rộng và phát triển các hoạt động kinh doanh khác.([9], tr 250)
1.1.2.4- Vai trò của hoạt động Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế
- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với vai trò trung gian tài chính của mình, các NHTM là cầu nối gắn kết các chủ thể trong xã hội, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư với nhiều hình thức đa dạng, phong phú; từ đó cung ứng vốn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. NHTM đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt tạm thời nhằm hỗ trợ cho các DN, các tổ chức và các chủ thể kinh tế duy trì hoạt động SX - KD; giúp các DN có vốn đầu tư để đổi mới thiết bị và công nghệ lạc hậu hoặc đầu tư để mở rộng hoạt động SX - KD, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Mặt khác, thông qua các nghiệp vụ cấp tín dụng, thanh toán, tiền tệ, dịch vụ các NHTM hỗ trợ các DN nâng cao hiệu quả SX - KD. Ngoài ra, NHTM còn góp phần phân bổ hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế.
- NHTM là kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ quốc gia của NHTW. NHTW thực thi CSTT thông qua việc sử dụng các công cụ như : lãi suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở…Chính các NHTM là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các công cụ này, đồng thời NHTM đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của CSTT đến nền kinh tế, vì hoạt động kinh doanh của các NHTM gắn liền với hoạt động kinh doanh của các DN, các tổ chức và các chủ thể kinh tế.
Qua NHTM và các định chế tài chính trung gian khác, các diễn biến tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, lãi suất, tỷ giá …của nền kinh tế được phản hồi về NHTW để Chính phủ và NHTW có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể.
1.2- Quản lý của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại
1.2.1- Khái niệm về quản lý của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại
Ngày nay hầu hết các nước đã và đang phát triển đều có sự quản lý, điều khiển, can thiệp của Nhà nước về kinh tế với phạm vi, mức độ và bằng các phương thức khác nhau, nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Quản lý nhà nước về kinh tế là một bộ phận của quản lý nhà nước nói chung, đây là một dạng các hoạt động phối hợp với nhau để thực hiện chức năng của hệ thống quản lý nhà nước nhằm tác động có hiệu quả lên hệ thống bị quản lý (nền kinh tế) bằng việc sử dụng các phương thức, công cụ, biện pháp quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong từng giai đoạn nhất định. [4]
Quản lý đối với hoạt động của các NHTM là một bộ phận của quản lý Nhà nước về kinh tế, là sự tác động có tổ chức, có định hướng của các cơ quan quản lý (chủ thể quản lý) vào hoạt động của các NHTM (đối tượng quản lý) bằng các phương thức quản lý khác nhau nhằm bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các NHTM và hệ thống tài chính, phục vụ mục tiêu nhất định của nền kinh tế.
Quản lý đối với hoạt động của các NHTM là quá trình thực hiện và phối hợp các chức năng hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động của các NHTM trên thị trường trong sự tác động của hệ thống quản lý đến hệ thống bị quản lý và khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu thông qua việc sử dụng hệ thống các công cụ và chính sách quản lý.
Từ các quan niệm về quản lý đối với hoạt động của các NHTM nói trên, có thể rút ra một số nhận xét sau :
+ Theo cách tiếp cận hệ thống, mọi tổ chức (cơ quan quản lý, NHTM) đều có thể được xem như một hệ thống gồm hai phân hệ : chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Mỗi hệ thống bao giờ cũng hoạt động trong môi trường nhất định (khách thể quản lý).
+ Chủ thể quản lý đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam hiện nay là các cơ quan nhà nước : từ Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua và ban hành luật, pháp lệnh tạo khuôn khổ pháp lý cho quản lý; Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế về lĩnh vực ngân hàng; Chính phủ là cơ quan hành pháp ban hành nghị định quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh và tổ chức các cơ quan chuyên môn để thực hiện chức năng quản lý nhà nước; NHNN Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ, là cơ quan quản lý đầu ngành ban hành thông tư quy định chi tiết thi hành luật của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thay mặt Chính phủ thực hiện chức năng quản lý đối với hoạt động của các NHTM; các bộ, ngành, địa phương có liên quan trong phạm vi luật pháp quy định cũng thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động của các NHTM (Điều 158 Luật các TCTD).
+ Đối tượng quản lý là NHTM và các hoạt động của NHTM.
+ Mục tiêu quản lý đối với hoạt động của các NHTM là nhằm đảm bảo hoạt động của các NHTM phát triển an toàn, lành mạnh để góp phần đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
+ Nội dung quản lý đối với hoạt động của các NHTM là một quá trình thực hiện phối hợp bốn loại chức năng : hoạch định; tổ chức; lãnh đạo; kiểm tra, thanh tra, giám sát.
+ Các phương pháp quản lý đối với hoạt động của các NHTM thường được sử dụng là phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính, phương pháp giáo dục thuyết phục và sự kết hợp giữa các phương pháp đó.
1.2.2- Sự cần thiết khách quan quản lý của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại.
- Quản lý của NHTW đối với các hoạt động NHTM trong nền kinh tế thị trường là cần thiết khách quan. Một mặt do những khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường gây nên; mặt khác, do NHTW là cơ quan quản lý đầu ngành đóng vai trò chủ đạo trong việc định hướng phát triển hoạt động NHTM nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
- Để góp phần bảo đảm hệ thống các NHTM phát triển an toàn và lành mạnh. NHTW không ngừng hoàn thiện việc quản lý, giám sát, điều tiết các hoạt động của NHTM, nhằm góp phần bảo đảm hệ thống các NHTM phát triển an toàn và lành mạnh; qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hệ thống các NHTM phát triển an toàn, lành mạnh, sẽ phát huy và nâng cao vai trò trung gian tài chính của mình trên thị trường tài chính nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung; đây là kênh quan trọng trong việc chuyển giao vốn từ những người tiết kiệm sang những người thiếu vốn có nhu cầu đầu tư SXKD. Mặt khác, hệ thống các NHTM hoạt động hiệu quả sẽ kênh truyền dẫn CSTT của NHTW, thông qua việc tài trợ vốn đầu tư cho các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Chính phủ trong từng thời kỳ.
- Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của NHTM. Các NHTM trong quá trình hoạt động, ngoài việc huy động cấp tín dụng, trung gian thanh toán giữa NHTM với khách hàng (cá nhân, tổ chức, DN), các NHTM còn cho vay, thanh toán lẫn nhau. Do
đó giữa các NHTM có mối liên hệ và phụ thuộc nhau. Nếu một ngân hàng sụp đổ, không chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền mà còn ảnh hưởng dây chuyền đến hệ thống thanh toán và hệ thống tài chính ngân hàng cả nước. Chính vì thế đòi hỏi cần có sự quản lý, giám sát của NHTW đối với hệ thống thanh toán của các NHTM cả nước, nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền .
- Quản lý, giám sát của NHTW đối với hoạt động của các NHTM, nhằm bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; thúc đẩy hoạt động của các NHTM an toàn, lành mạnh; không ngừng nâng cao năng lực tài chính; đảm bảo chi trả cho mọi nhu cầu rút tiền của khách hàng (khả năng thanh khoản). Từ đó, sẽ duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các NHTM.
Thực tế thời gian vừa qua cho thấy hoạt động NHTM mặc dù đã được NHTW cảnh báo, nhắc nhở nhưng vẫn xảy ra nhiều vi phạm, do đó cần thiết nâng cao hiệu quả quản lý của NHTW để hoạt động NHTM phát triển an toàn và lành mạnh.
- Ngăn chặn và kiểm soát rủi ro có thể lây lan các ngân hàng, mang tính hệ thống. Hoạt động NHTM luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nếu rủi ro đơn lẻ thì phạm vi ảnh hưởng của nó giới hạn trong phạm vi một ngân hàng, nhưng rủi ro mang tính hệ thống thì sẽ tác động đến toàn bộ thị trường, ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, làm suy yếu và thậm chí có thể gây ra sự sụp đổ hệ thống ngân hàng. Do đó, cần có sự ngăn chặn, kiểm soát và hạn chế rủi ro nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng.
- Kiểm soát khả năng “tạo tiền” của các NHTM nhằm duy trì, ổn định kinh tế vĩ mô. Trong các chức năng của NHTM, có chức năng “tạo tiền”, đây là sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng