vùng thành thị (thành phố, thị xã, thị trấn), và tham gia hoạt động dịch vụ, sản xuất công nghiệp nhỏ1.
Các hộ kinh doanh cá thể có đa phần thời gian hoạt động trên 5 năm (59,14%) - bởi các hộ này có nền tảng kinh doanh từ trước2 (với các ngành nghề truyền thống - như sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ). Đa phần các hộ này sử dụng từ 5
- 9 lao động theo thời vụ (đặc biệt đối với các hộ sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo thời vụ). Đây cũng là các hộ sử dụng trên 10 lao động thường xuyên. Số hộ có thời gian hình thành dưới 1 năm cũng rất thấp, đa phần kinh doanh dịch vụ hoặc các sản phẩm mới trên thị trường, chưa từng kinh doanh trước đây. Các hộ này thường không sử dụng lao động bên ngoài mà dùng chính người trong gia đình của mình (bản thân vợ/chồng hoặc con cái sẽ tham gia lao động).
Bảng 3.3. Kết quả học vấn và tiếp cận nguồn thông tin của hộ
Tần suất | Tỷ lệ | ||
Học vấn cao nhất của chủ hộ | Từ tiểu học trở xuống | 46 | 6,37% |
THCS và THPT | 188 | 26,04% | |
Trung cấp | 249 | 34,49% | |
Cao đẳng và đại học | 196 | 27,15% | |
Sau đại học | 43 | 5,96% | |
Có sử dụng điện thoại thông minh hay không | Có | 102 | 14,13% |
Không | 620 | 85,87% | |
Có sử dụng internet hay không | Có | 127 | 17,59% |
Không | 595 | 82,41% | |
Có sử dụng các phần mềm kế toán hay không | Có | 449 | 62,19% |
Không | 273 | 37,81% |
Có thể bạn quan tâm!
- Mô Hình Nghiên Cứu Và Giả Thuyết Nghiên Cứu
- Khả Năng Tiếp Cận Tín Dụng Ngân Hàng Của Hộ Kinh Doanh Cá Thể
- Thang Đo Ý Định Sử Dụng Tín Dụng Phi Chính Thức
- Đối Với Mô Hình Tiếp Cận Tín Dụng Phi Chính Thức
- Kết Quả Sem Của Tiếp Cận Tín Dụng Phi Chính Thức
- Đối Với Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Tiếp Cận Tín Dụng Phi Chính Thức
Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Trong số các hộ kinh doanh cá thể được khảo sát thì số chủ hộ có tỉ lệ từ tiểu học trở xuống rất thấp, chỉ 46 hộ, chiếm khoảng 6,37%. Điều này cho thấy, trình độ học vấn của các hộ đã nâng lên đáng kể để tự cải thiện dân trí của mình. Đa số các hộ này và các hộ có trình độ THCS - THPT đều nằm trong khu vực nông thôn, vốn ít có
1 Các hộ có doanh thu cao hơn đã chuyển thành các doanh nghiệp siêu vi mô hoặc doanh nghiệp nhỏ, không để
kinh doanh theo hộ.
2 Một số hộ tính thời gian kinh doanh của mình từ trước khi đăng kí thành lập.
điều kiện phát triển kinh tế cũng như học hành (ADR, 2014). Số hộ có trình độ trung cấp chiếm tỷ trọng cao nhất - bởi đa phần các chủ hộ cho rằng mình chỉ cần đào tạo nghề là có thể kinh doanh được, do vậy, đối với nhóm hộ hoạt động liên quan đến kỹ thuật (như sửa chữa các loại máy móc, kinh doanh các loại máy móc) thì việc này phù hợp. Một số hộ kinh doanh liên quan đến nông nghiệp được đào tạo các ngành nghề cơ bản từ trung cấp như cây trồng, vật nuôi, phân bón. Đa phần các hộ còn lại có trình độ cao hơn (cao đẳng - đại học - sau đại học) tập trung ở vùng thành thị, kinh doanh các mặt hàng công nghệ cao (như điện, điện tử, các dịch vụ công cộng…). Điều này phù hợp với thực tế Việt Nam khi các hộ khu vực này có điều kiện (về kinh tế, về địa lý…) để học tập.
Tất cả các hộ kinh doanh đều sử dụng điện thoại, trong số đó có đến hơn 85% số hộ sử dụng điện thoại thông minh. Số hộ sử dụng internet tuy có thấp hơn nhưng cho thấy rằng: thời điểm hiện tại, Việt Nam đang phổ biến dần internet và điện thoại thông minh để hỗ trợ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nếu đối chiếu với số liệu trong việc các hộ có sử dụng phần mềm kế toán hay không thì lại khác: đa phần các hộ đều sử dụng ghi chép trên sổ sách giấy (không phải dạng sổ kế toán). Một số hộ có sử dụng phần mềm, nhưng chỉ liên quan đến “quẹt” giá của sản phẩm mà không liên quan đến kế toán. Điều này gây ra tình trạng thất thu thuế khá nhiều cho nhà nước. Kết quả khảo sát trực tiếp các hộ cho thấy, mặc dù các tỉnh thành đều hỗ trợ tải phần mềm kế toán miễn phí nhưng các hộ không biết việc này, và cũng cho rằng không cần thiết phải biết, bởi công việc kinh doanh khá đơn giản.
3.2.2. Tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam dựa trên kết quả khảo sát
Trong số các hộ được khảo sát, có đến 532 hộ sử dụng tín dụng chính thức - được vay từ các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân cở sở, tổ chức tài chính vi mô và ngân hàng chính sách xã hội. Như thế, có thể thấy rằng: có đến 74% tổng số hộ kinh doanh cá thể đủ điều kiện tiếp cận với tín dụng chính thức - cao hơn rất nhiều so với kết quả khảo sát về tiếp cận tín dụng của cá nhân vùng nông thôn Việt Nam của các nghiên cứu trước, chỉ dao động khoảng 20 - 40% tùy từng vùng (ADR, 2014, Finn, 2018). Điều này cho thấy rằng: các hộ cũng đang cố gắng để nâng cao khả năng của chính mình trong việc tiếp cận các dịch vụ chính thức.
Bảng 3.4. Kết quả khảo sát các hộ tiếp cận tín dụng chính thức và phi chính thức
Số hộ | |
Sử dụng tín dụng chính thức | 532 |
Sử dụng tín dụng phi chính thức | 563 |
Sử dụng cả hai hình thức | 373 |
Tổng | 722 |
Nguồn: Tính toán của tác giả
Tuy nhiên, điều cần nói ở đây là số hộ sử dụng tín dụng phi chính thức còn cao hơn rất nhiều: 563 hộ - chiếm gần 78%. Các hộ này đa phần lấy vốn ở (1) người thân;
(2) tham gia vào các tổ chức tự nguyên để chơi họ/hụi/phường/biêu; (3) vay lãi ngày của các tổ chức cung ứng dịch vụ tín dụng đen. Trong số các hộ được hỏi thì việc đi vay lãi ngày rất phổ biến. Một số hộ cho rằng: kể cả chơi họ cũng là một hình thức của việc vay tín dụng đen (như bốc bát họ, cho vay bát họ…) nhưng cần vốn trong ngắn hạn (vài ngày) nên khó có thể vay vốn chính thức được. Một tỷ lệ rất nhỏ khác (chỉ có 8 hộ) trả lời rằng: họ có thể vay qua công nghệ trên các ứng dụng trên điện thoại di động thông qua việc vay tiền trực tiếp (peer to peer lending). Số hộ sử dụng cả 2 dịch vụ này cũng khá lý thú: khoảng 1 nửa số hộ đã thực hiện hoạt động vay cả 2 loại hình là chính thức và phi chính thức.
Bảng 3.5. Thời gian vay vốn bình quân của các hộ
Số hộ | |
Dưới 7 ngày | 72 |
Từ 7 đến 15 ngày | 144 |
Từ 15 ngày đến dưới 1 tháng | 115 |
Từ 1 đến 6 tháng | 66 |
Từ 6 tháng đến 1 năm | 183 |
Trên 1 năm | 142 |
Nguồn: Tính toán của tác giả
Trong số các hộ, thì có đến 72 hộ cho rằng họ cần vốn rất ngắn, chỉ khoảng vài ngày là có thể chi trả. Đa phần các hộ này kinh doanh liên quan đến thực phẩm (rau sạch, thịt gia súc gia cầm…) nên vốn lưu động rất nhanh - nếu không có sự thay đổi bất thường của thiên tai hay thị trường. Số hộ vay tầm từ 7 đến 15 ngày cũng rất cao, lên
đến 144 hộ, số hộ vay dưới 1 tháng là 115 hộ. Như vậy, có thể thấy rằng: 40% số hộ kinh doanh cần vốn trong thời gian rất ngắn. Số hộ cần vốn bình quân trong 1 năm cũng không cao, chỉ có 142 hộ, đa phần đều thực hiện kinh doanh vật liệu xây dựng hoặc các hàng hóa có chu kỳ dài. Điều này cho thấy: nếu với thời gian vay vốn như thế, thì bản thân các hộ cũng khó có thể tiếp cận được tín dụng chính thức một cách phù hợp: gần như không một ngân hàng nào có thể cho vay với thời gian dưới 7 ngày, do vậy, tín dụng phi chính thức lại trở nên phù hợp.
Về số vốn vay bình quân trong một lần cũng có những sự khác biệt nhất định: 45 hộ chỉ cần vay số tiền dưới 30 triệu (tức là số tiền không lớn - rất khó để các ngân hàng thương mại cho vay. Mà khoản tiền này cũng không nhỏ khi so sánh với các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và ngân hàng chính sách xã hội). Số tiền này lại cần vay trong khoảng thời gian ngắn (dưới 7 ngày) nên người được khảo sát trả lời rằng: họ chấp nhận lãi suất cao hơn để có thể vay được - con hơn là chờ đợi từ phía ngân hàng hay các tổ chức khác.
Bảng 3.6. Số vốn bình quân một lần của các hộ
Số hộ | |
Dưới 30 triệu | 45 |
Từ 30 đến dưới 50 triệu | 88 |
Từ 50 đến dưới 100 triệu | 179 |
Từ 100 đến dưới 500 triệu | 228 |
Từ 500 đến dưới 1 tỷ | 95 |
Trên 1 tỷ | 87 |
Nguồn: Tính toán của tác giả
Phổ biến nhất trong các khoản vay là các khoản từ 100 đến dưới 500 triệu (228 phiếu), và sau đó là các khoản từ 50 - 100 triệu (179 phiếu). Đa phần các hộ có thu nhập bình quân 1 tháng không quá 30 triệu nên số tiền này phù hợp để đầu tư vào cơ sở vật chất, mua nguyên vật liệu dự trữ để phát triển sản xuất. Mục đích của các khoản vay này là đáp ứng nhu cầu trong ngắn hạn (nhập nguyên vật liệu, mua cây giống, mua phân bón, trả cho người bán hàng…) nên thời gian cũng không cần dài. Vì thế, ngoài các NHTM thì các hộ có thể tiếp cận theo chương trình vốn vay của ngân hàng chính sách xã hội (cho vay với các hộ ở vùng kinh tế khó khăn, nhưng không quá 120 triệu
đồng/khoản vay), vay quỹ tín dụng nhân dân (nhưng phải là người gửi tiền hoặc cổ đông), và nhanh hơn cả là vay tín dụng phi chính thức.
Đối với tín dụng chính thức, một trong những trở ngại lớn nhất mà các hộ khi được khảo sát cho rằng: không phải lãi suất vay vốn là cản trở, mà lại là thời gian thẩm định. Việc các hộ không đáp ứng được các yêu cầu về hồ sơ vay vốn, việc trả qua thẻ hay vấn đề về tài sản đảm bảo (đa phần các hộ ở vùng nông thôn không có sổ đỏ để đáp ứng nhu cầu vay vốn hoặc các hộ vùng thành thị thì khó chứng minh thu nhập nếu vay theo hướng tiêu dùng) đã làm các hộ sử dụng tín dụng phi chính thức - đặc biệt là tín dụng đen. Các tổ chức cung cấp tín dụng đen thì giải ngân rất nhanh: trung bình 1 khoản vay chỉ tốn khoảng 30 phút, và chấp nhận vay số tiền nhỏ trong thời gian ngắn. Đây cũng là việc cần cân nhắc của các cơ quan quản lý nhà nước trong thời gian tới.
3.3. Kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động tiếp cận tín dụng của các hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam
3.3.1. Đối với mô hình tiếp cận tín dụng chính thức
3.3.1.1. Kết quả đánh giá mức độ tin cậy của thang đo
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá bằng phương pháp nhất quán nội tại qua hệ số Cronbach’s Alpha. Sử dụng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha trước khi phân tích nhân tố EFA để loại các biến không phù hợp vì các biến rác này có thể tạo ra các yếu tố giả (Hair và cộng sự, 2016).
Yếu tố khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.703 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình đạt được độ tin cậy.
Yếu tố tài sản đảm bảo sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.714 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về tài sản đảm bảo đạt được độ tin cậy.
Yếu tố thu nhập sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.685 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về thu nhập đạt được độ tin cậy.
Yếu tố kinh nghiệm của chủ hộ sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.646 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về kinh nghiệm của chủ hộ đạt được độ tin cậy.
Yếu tố khoảng cách sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.738 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến
- tổng đều > 0.3 nên thang đo về khoảng cách đạt được độ tin cậy.
Yếu tố lãi suất sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.764 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến
- tổng đều > 0.3 nên thang đo về lãi suất đạt được độ tin cậy.
Yếu tố thủ tục vay vốn sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.662 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về thủ tục vay vốn đạt được độ tin cậy.
Yếu tố kinh nghiệm của TCTD sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.659 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về kinh nghiệm của TCTD đạt được độ tin cậy.
Yếu tố dịch vụ ngân hàng điện tử sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.683 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về dịch vụ ngân hàng điện tử đạt được độ tin cậy.
3.3.1.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA
● Biến độc lập
Sau khi chạy kiểm định EFA, tác giả nhận thấy có sự tương quan rất mạnh giữa
các biến về tài sản đảm bảo, thu nhập và kinh nghiệm của chủ hộ gia đình. Sau khi phỏng vấn sâu các chuyên gia về lý thuyết, tác giả quyết định gộp hai nhân tố Tài sản đảm bảo và Thu nhập thành một nhân tố đại diện là Đặc điểm của chủ hộ. Nếu kết quả kiểm định cho ra tác động thuận chiều của biến đại diện với biến phụ thuộc thì hai giả thiết H1 và H2 đều được đảm bảo.
Kết quả EFA về Đặc điểm của chủ hộ cho thấy cho thấy 5 tiêu chí đo lường DDCH1, DDCH2, DDCH3, DDCH4, DDCH5 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 59,0% đến 78,6 % chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố.
Kết quả EFA về Khoảng cách cho thấy 2 tiêu chí đo lường KC1, KC3 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 68,4% đến 88,4% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố.
Kết quả EFA về Lãi suất cho thấy 3 tiêu chí đo lường LS1, LS2, LS3 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 73,2% đến 81,0% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố.
Bảng 3.7: Kiểm định KMO và Bartlett
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. | .741 |
Bartlett's Test of Sphericity Approx. Chi-Square | 176.848 |
df | 6 |
Sig. | 0.000 |
Nguồn: Tác giả phân tích
Kết quả EFA về Kinh nghiệm của chủ hộ cho thấy 3 tiêu chí đo lường KN1, KN2, KN3 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 68,8% đến 81,6% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố.
Kết quả EFA về Thủ tục vay vốn cho thấy 2 tiêu chí đo lường TTV1, TTV2 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 71,7% đến 77,3% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố.
Kết quả EFA về Kinh nghiệm của ngân hàng cho thấy 2 tiêu chí đo lường KNNH1, KNNH2 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 69,2% đến 80,9% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố.
Kết quả EFA về Dịch vụ ngân hàng điện tử cho thấy 4 tiêu chí đo lường NHĐT1, NHĐT2, NHĐT3, NHĐT4 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 66.9% đến 73.5% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố
Kết quả phân tích nhân tố khám phá với các biến quan sát khảo sát các hộ gia đình cho kết quả tốt, thể hiện ở hệ số KMO = 0.741; Sig = 0.00, đều cho thấy rằng kết quả phân tích nhân tố khám phá là có sự tin cậy cao. Giá trị tổng phương sai trích của nhân số thứ và giá trị hệ hội tụ eigenvalues của nhân tố này có giá trị là cho thấy các biến quan sát ban đầu có sự hội tụ ở 7 nhân tố, các nhân tố này biểu diễn được sự biến thiên của dữ liệu khảo sát. Do đó, các nhân tố đảm bảo được khả năng đại diện cho dữ liệu khảo sát ban đầu.
● Biến phụ thuộc
Bảng 3.8: Phân tích EFA của biến Khả năng tiếp cận tín dụng
Hệ số nhân tải | |
Y1 | 0.613 |
Y2 | 0.732 |
Y3 | 0.668 |
Y4 | 0.792 |
Tổng phương sai trích: 83.163% *Kiểm định Bartlett <0.05 KMO = 0.723 |
Nguồn: Tác giả phân tích
Kết quả phân tích nhân tố khám phá với các biến quan sát của Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình cho kết quả tốt, thể hiện ở hệ số KMO = 0.723, Sig=0.00, đều cho thấy rằng kết quả phân tích nhân tố khám phá là có sự tin cậy cao. Giá trị tổng phương sai trích của nhân tố này là 83.163% >50%, từ đó cho thấy, nhân tố này biểu diễn được sự biến thiên của dữ liệu khảo sát. Do đó, nhân tố này đảm bảo được khả năng đại diện cho dữ liệu khảo sát ban đầu.
● Tổng hợp kết quả
Thang đo về biến độc lập gồm 7 thành phần: đặc điểm của chủ hộ, kinh nghiệm