Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Kiểm Toán Bctc


- Cấp độ Quốc gia: Cơ quan quản lý kiểm toán

Vì vậy, nhân tố đầu ra cần hữu ích, kịp thời và đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng.

Nhân tố tương tác

Sự tương tác giữa các bên liên quan trong việc cung cấp BCTC sẽ góp phần nâng cao CLKT và tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa đầu vào và đầu ra. Sự tương tác gồm:

- Sự tương tác của KTV với: Nhà quản lý, Ban quản trị, Người sử dụng BCTC, Cơ quan Nhà nước;

- Sự tương tác của Nhà quản lý với: Ban quản trị, Cơ quan Nhà nước, Người sử dụng BCTC;

- Sự tương tác của Ban quản trị với: Cơ quan Nhà nước, Người sử dụng BCTC; Sự tương tác của Cơ quan Nhà nước với Người sử dụng BCTC.

Nhân tố ngữ cảnh

Các nhân tố ngữ cảnh có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến CLKT, gồm: Thực tiễn kinh doanh, Luật Thương mại; Luật, những quy định liên quan đến BCTC; Áp dụng khuôn khổ BCTC; Hệ thống thông tin; Quản trị doanh nghiệp; Các yếu tố văn hóa bên ngoài; Quy định về kiểm toán; Môi trường cạnh tranh; Thu hút nhân tài; Thời hạn của BCTC.

Như vậy, với sự ban hành các khuôn khổ CLKT này, IAASB tin tưởng rằng sẽ mang lại những lợi ích sau:

- Nâng cao mức độ nhận thức và sự hiểu biết giữa các bên liên quan đối với các yếu tố quan trọng của CLKT;

- Cho phép các bên liên quan nhận diện được vai trò, mức độ tác động của các yếu tố để có biện pháp thích hợp;

- Hỗ trợ việc thiết lập, điều chỉnh, cải tiến các CMKiT, Chuẩn mực Đạo đức nghề nghiệp, chương trình đào tạo trong cả phạm vi quốc tế và quốc gia...


Bảng 2.1. Tóm tắt Khuôn khổ CLKT theo IAASB, 2014


Nhân tố đầu vào

Nhân tố quá trình

Nhân tố đầu ra

Nhân tố tương tác

Nhân tố ngữ cảnh

- Giá trị đạo đức và thái độ.

- Kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và thời gian.

- Quy trình kiểm toán.

-T hủ tục kiểm soát chất lượng.

- Báo cáo kiểm toán.

- BCTC đã được kiểm toán.

- Báo cáo minh bạch.

- Báo cáo kiểm oát chất lượng kiểm toán.

Tương tác giữa KTV, Cơ quan Nhà nước và Người sử dụng BCTC

- Thực tiễn kinh doanh.

- Luật, những quy định liên quan đến BCTC.

- Áp dụng khuôn khổ BCTC.

- Hệ thống thông tin.

- Quản trị kinh doanh.

- Các yếu tố văn hóa bên ngoài.

- Quy định về kiểm toán.

- Môi trường cạnh tranh.

- Thu hút nhân lực.

- Thời hạn của BCTC.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty kiểm toán độc lập trên địa bàn tỉnh Bình Dương - 6

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)


32


2.3. Lý thuyết nền

2.3.1. Lý thuyết Ủy nhiệm

Trong lĩnh vực về KTĐL, Lý thuyết Ủy nhiệm là lý thuyết có vai trò quan trọng và được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu cũng như ứng dụng trong thực tiễn nhằm giải thích nhu cầu kiểm toán, nhu cầu về CLKT và vai trò của các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT (Kim, 2010).

Lý thuyết Ủy nhiệm bắt nguồn từ việc gia tăng rộng rãi hình thức sở hữu cổ phần trong các doanh nghiệp và hành động quản lý xuất phát từ yêu cầu tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông (Berle & Means, 1932) và được dùng để mô tả mối quan hệ giữa một bên (Người chủ) ủy nhiệm công việc cho bên còn lại/bên khác (Đại diện). Điều này dẫn đến sự tách biệt giữa quyền sở hữu và sự kiểm soát. Trong bối cảnh đó, có thể xảy ra ba loại thông tin bất đối xứng trong đó, thông tin ẩn và hành động ẩn là những rủi ro đạo đức. Để duy trì mối quan hệ giữa Người chủ và Người Đại diện có hiệu quả và hạn chế việc phân hóa lợi ích, Người chủ có thể sử dụng nhiều biện pháp như đưa ra các ưu đãi cho Người Đại diện và hạn chế các hoạt động đối lập bằng phương tiện thích hợp trong việc kiểm soát để giảm thiểu các mâu thuẫn về quyền lợi (Jensen & cộng sự, 1976).

Theo Healy & Palepu (2001), kiểm toán là yếu tố thiết yếu trong việc giám sát các mối quan hệ ủy nhiệm và công bố thông tin phát sinh từ sự bất đối xứng thông tin và xung đột lợi ích giữa Người chủ và Người Đại diện. Mặt khác, số liệu kế toán sẽ không đáng tin cậy trừ khi được chuẩn bị theo các nguyên tắc đã được quy định và được kiểm tra bởi các KTV. Vì vậy, vai trò của kiểm toán có liên quan đến hai vấn đề: Mâu thuẫn về lợi ích và Thông tin bất đối xứng trong các hợp đồng ủy nhiệm.

Xuất phát từ sự bất đồng trong việc ủy nhiệm, mâu thuẫn của sự ủy nhiệm càng cao càng làm tăng nhu cầu về mức độ đảm bảo đối với bên thứ ba, theo đó yêu cầu về CLKT cũng sẽ cao hơn, yêu cầu này là định hướng quan trọng cho nhu cầu của khách hàng về CLKT qua việc lựa chọn các DNKT quy mô lớn có uy tín, KTV


có năng lực, kinh nghiệm và chuyên ngành cao. Theo Francis & Wilson (1988), chi phí ủy nhiệm ảnh hưởng đến sự lựa chọn một thương hiệu kiểm toán chất lượng cao. Trong việc đáp ứng nhu cầu này, giá phí kiểm toán còn có tác động đến việc lựa chọn KTV có đủ năng lực và trình độ, công việc lập kế hoạch và thực hiện công việc kiểm toán để có thể phát hiện BCTC có sai sót trọng yếu, đặc biệt còn ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV trong việc báo cáo sai sót (Wooten, 2003).

Các nhận định trên cho thấy Lý thuyết Ủy nhiệm bên cạnh việc giải thích về nhu cầu kiểm toán, còn làm cơ sở cho việc giải thích nhu cầu về CLKT cũng như nghiên cứu về các nhân tố có tác động đến CLKT.

2.3.2. Lý thuyết Cung cầu

Lý thuyết Cung cầu được khởi xướng từ năm 1767 bởi James Denham Steuart và được Adam Smith phát triển, áp dụng phổ biến trong các lý thuyết kinh tế cho đến nay. Lý thuyết này là một trong những nội dung quan trọng nhất của kinh tế học, được xây dựng dựa trên cơ sở của mô hình cung cầu để phân tích hành vi của Người sản xuất và Người tiêu dùng tác động qua lại với nhau trên thị trường. Ngoài ra, mô hình cung cầu còn thể hiện sự tác động từ chính sách của Cơ quan quản lý trên thị trường.

Trong nghiên cứu này, Lý thuyết Cung cầu được sử dụng để giải thích cơ chế về nhu cầu của khách hàng, khả năng đáp ứng của KTV và DNKT về CLKT cũng như cơ chế giá cả trong mối quan hệ cung cầu giữa KTV và khách hàng, các yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu về CLKT.

Theo Simunic (1980) dịch vụ đảm bảo được cung cấp bởi KTV là một sản phẩm kinh tế, CLKT là một thuộc tính của dịch vụ kiểm toán, do đó cũng được hình thành từ nhu cầu của khách hàng, khả năng cung cấp của DNKT và KTV. Defond & Zhang (2014) đã đưa ra lập luận về nhu cầu và khả năng cung cấp. Theo Defond & Zhang, CLKT được xuất phát từ nhu cầu của khách hàng và việc cung cấp của KTV.

Nhu cầu về CLKT của khách hàng phát sinh từ nhu cầu giải quyết sự bất cân xứng về thông tin, quan hệ Người chủ và Người Đại diện càng thấp càng làm tăng


nhu cầu về sự đảm bảo CLKT, bên cạnh đó các quy định pháp luật về kiểm toán cũng đặt ra yêu cầu Người chủ và Người Đại diện phải đáp ứng yêu cầu của KTV nhằm đảm bảo một cuộc kiểm toán có chất lượng. Ngoài ra, năng lực của khách hàng trong hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ cũng đòi hỏi một CLKT cao nhằm hỗ trợ các hoạt động kiểm soát còn hạn chế của các bộ phận này. Nhu cầu về CLKT cao còn xuất phát từ mong muốn nâng cao chất lượng BCTC của Nhà quản lý.

Khả năng cung cấp CLKT xuất phát từ động lực của KTV và DNKT, như danh tiếng, tránh kiện tụng và quy định pháp luật. Những khả năng này được thể hiện qua các yếu tố đầu vào: Năng lực của KTV, Mức độ chuyên ngành, Tính độc lập, Quy mô DNKT, Sự thay đổi nhu cầu của khách hàng và năng lực KTV dẫn đến sự thay đổi về CLKT.

Ngoài các yếu tố trên, sự can thiệp và điều tiết của cơ quan Nhà nước về Kiểm toán, như quy định của Ủy ban Kiểm toán tại các doanh nghiệp và sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan quản lý Nhà nước đến CLKT tại các DNKT cũng góp phần thúc đẩy nhu cầu khách hàng cũng như nỗ lực của KTV trong việc cung cấp CLKT cao.

Như vậy, tác động quan hệ cung cầu về CLKT giữa khách hàng và DNKT đã đặt ra một yêu cầu đối với DNKT trong việc nâng cao CLKT nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng và khả năng cung cấp của KTV, DNKT. Nhu cầu và khả năng này chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố CLKT cả về phía cung (của DNKT và KTV) lẫn phía cầu (khách hàng).

Xét trên phương diện kinh tế, quá trình kiểm toán là việc trao đổi giữa KTV - Khách hàng - những Người sử dụng kết quả kiểm toán. Trong cơ chế thị trường, khi KTV tiến hành kiểm toán lỗi dẫn đến tranh chấp thì DNKT phải bồi thường và vấn đề nghiêm trọng hơn là DNKT sẽ bị ảnh hưởng đến danh tiếng thương mại của họ. DNKT có danh tiếng thương mại tốt thì giá phí sẽ cao hơn DNKT có danh tiếng thấp hơn. Khoản phí cao hơn này được gọi là tiền thuê phụ trội (Arruđada, 1999).


Để tạo danh tiếng (tiền thuê phụ trội), trước tiên giá bán (phí kiểm toán) phải vượt quá biên tế hoặc chi phí cơ hội. Hai là khách hàng (Nhà quản lý, Người sử dụng) phải nhận ra chất lượng của Nhà cung cấp (KTV) thông qua danh tiếng của doanh nghiệp nên có thể tin tưởng họ. CLKT là cơ sở để bảo vệ DNKT trong việc giảm thiểu các thiệt hại xảy ra do sai sót, đồng thời làm tăng chi phí phụ trội trong hoạt động kiểm toán (Duff, 2004). Để xác định giá cả trong quan hệ giao dịch, giá phí kiểm toán ngoài những chi phí biên tế, còn bao gồm chi phí danh tiếng. Cũng theo Defond & Zhang (2014), thông tin về CLKT có thể được suy ra từ tính chất hợp đồng ký kết giữa KTV và khách hàng như giá phí kiểm toán. Giá phí kiểm toán được sử dụng để đại diện cho CLKT vì họ đang mong đợi để đo lường mức độ nỗ lực của KTV là một yếu tố đầu vào cho quá trình kiểm toán có ảnh hưởng trực tiếp đến CLKT, giá phí kiểm toán là kết quả của các yếu tố cung và nhu cầu kiểm toán. Do đó giá phí kiểm toán cũng được sử dụng trong việc nghiên cứu cả phía cung và phía cầu. Trong nhiều nghiên cứu, giá phí kiểm toán thường được sử dụng để đánh giá năng lực của KTV liên quan đến CLKT, để xem xét mối quan hệ giữa CLKT và nguy cơ kiện tụng hoặc mức độ chuyên ngành của KTV với CLKT.

Lý thuyết này được đưa vào nghiên cứu nhằm giải thích sự tác động của nhân tố giá phí đến chất lượng kiểm toán BCTC.

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC

2.4.1. Quy mô

Nghiên cứu của DeAngelo (1981) đi đến kết luận rằng các DNKT có quy mô lớn thuờng có chất luợng đuợc đánh giá bởi thị truờng cao hơn các DNKT có quy mô nhỏ. Đồng thời tác giả còn cho rằng DNKT càng nhiều khách hàng thì họ càng bị áp lực kinh tế buộc phải duy trì và nâng cao chất luợng kiểm toán. Ngoài ra nghiên cứu của JH Choi, C Kim, JB Kim, Y Zang (2010) đều cho rằng CLKT có mối quan hệ với quy mô của DNKT. Quy mô DNKT càng lớn với nguồn tài chính dồi dào sẽ có điều kiện duy trì chất lượng dịch vụ ở mức cao và sẽ làm giảm tối thiểu khả năng xảy ra các vụ kiện tụng.


Trần Khánh Lâm (2011) chỉ ra rằng quy mô khách hàng càng lớn thì thường ít ký hợp đồng với DNKT có quy mô nhỏ. Họ thường có xu hướng chọn các DNKT có quy mô lớn và có danh tiếng, vì có thể những khách hàng lớn tin tưởng rằng những DNKT lớn sẽ cung cấp một CLKT cao hơn và vì vậy giữ gìn danh tiếng của họ. Do đó, các DNKT lớn lo sợ thiệt hại về danh tiếng nên có xu hướng cung cấp chất lượng KTĐL cao hơn. JH Choi, C Kim, JB Kim và Y Zang (2010) cho rằng DNKT lớn có nhiều điều kiện và cam kết để đạt được một CLKT cao hơn vì có thể áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, nguồn nhân lực trình độ chuyên môn cao cũng như có chương trình đào tạo thường xuyên và xây dựng được chương trình kiểm toán chuẩn. Nguyễn Thị Thùy Dung (2017) cho rằng quy mô DNKT thể hiện qua vốn điều lệ, số lượng kiểm toán viên và nhân viên, số lượng khách hàng và lịch sử hoạt động của DNKT. Quy mô càng lớn càng tác động tốt đến CLKT.

Như vậy, từ những phân tích trên có thể thấy quy mô là một trong những nhân tố quan trọng để đo lường và đánh giá về CLKT.

2.4.2. Giá phí

De Angelo (1981) đưa ra mô hình giá phí và chi phí kiểm toán, mô hình này đã góp phần chỉ rõ mối liên hệ giữa chi phí kiểm toán và mối quan hệ với khách hàng. Cụ thể đó là DNKT thường có xu hướng ấn định mức giá phí kiểm toán ở năm đầu tiên dưới mức chi phí thực tế mà công ty bỏ ra để thu được lợi nhuận tăng thêm trong tưong lai từ việc thực hiện các hợp đồng này. Điều này cũng tạo ra mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với khách hàng qua đó làm suy giảm tính độc lập của KTV và dẫn đến giảm chất lượng kiểm toán.

Theo Al Khaddash và cộng sự (2013) giá phí kiểm toán được dùng làm đại diện cho CLKT vì được sử dụng để đo lường mức độ nỗ lực của KTV là một yếu tố đầu vào của quá trình kiểm toán và có liên quan trực tiếp đến CLKT. Ngoài ra, giá phí kiểm toán có nhiều lợi thế trong việc đo lường CLKT do liên tục biến đổi và đa dạng, giá phí kiểm toán cao sẽ tạo điều kiện để có thể phân công các KTV có trình độ và có thêm thời gian cần thiết để KTV phát hiện các lỗi và sai phạm trong BCTC.


JH Choi và cộng sự (2010) cho rằng do áp lực cạnh tranh của thị trường dịch vụ nên một số DNKT nhỏ đã giảm giá phí thấp xuống nhằm giữ chân khách hàng, làm cho các KTV có thể bỏ qua thủ tục kiểm toán cần thiết để phù hợp với giá phí.

Tại Việt Nam, theo thông tư 70/2015/TT-BTC quy định về Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán quy định nếu doanh thu DNKT trong hai năm liên tiếp từ khách hàng là đơn vị có lợi ích công chúng chiếm hơn 15% tổng doanh thu của DNKT thì phải công bố với Ban quản trị của khách hàng rằng tổng phí dịch vụ đó chiếm hơn mức 15% tổng doanh thu của doanh nghiệp, và trao đổi về biện pháp bảo vệ nhằm giảm nguy cơ tự lợi hay nguy cơ bị đe dọa sẽ ảnh hưởng đến ý kiến của KTV, cũng như chất lượng KTĐL. Bên cạnh đó, Phan Văn Dũng (2015) cho rằng giá phí kiểm toán được đo lường trên cơ sở đảm bảo thời gian, nhân sự thực hiện cuộc kiểm toán dựa trên khối lượng công việc và mức độ phức tạp của công việc kiểm toán.

Dựa trên các phân tích trên, nhìn chung các nghiên cứu đều cho rằng giá phí kiểm toán có tác động đến CLKT và tác động thuận hướng đến CLKT.

2.4.3. Nhiệm kỳ kiểm toán

Với các vụ gian lận lớn và phá sản của các doanh nghiệp thì mối quan hệ giữa khách hàng và KTV, DNKT ngày càng được quan tâm hơn. Việc bắt buộc luân phiên KTV là một biện pháp để nâng cao tính độc lập của KTV - cũng chính là nâng cao CLKT. Quy định về thời hạn thay đổi KTV nhằm giới hạn nhiệm kỳ KTV vì sự gia tăng mối quan hệ thân thiết giữa KTV và khách hàng sẽ làm ảnh hưởng xấu đến CLKT. Trên thực tế ở các quốc gia, quy định về luân phiên KTV với chất lượng kiểm toán về cơ bản có 2 ý kiến như sau:

- Ủng hộ luân chuyển KTV: Phần lớn ý kiến cho rằng, nhiệm kỳ KTV càng dài thì càng có thể làm giảm CLKT bởi vì điều này làm gia tăng sự phụ thuộc của KTV vào ban lãnh đạo của doanh nghiệp được kiểm toán. Một khách hàng quá quen thuộc sẽ không gây nên sự chú ý, tác động giúp KTV có cách nhìn nhận, đánh giá mới và cũng không còn khả năng tư vấn, đề xuất các biện pháp cải cách mới mẻ

Xem tất cả 187 trang.

Ngày đăng: 13/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí