Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 2


DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 2.1: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến CTV Ngân hàng Bảng 3.1: Bảng tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu

Bảng 4.1: Thống kê mô tả biến phụ thuộc và các biến độc lập giai đoạn từ năm 2007 – 2011

Bảng 4.2: Mối quan hệ tương quan giữa các biến


Bảng 4.3: Bảng đánh giá độ phù hợp của các mô hình và kiểm tra tự tương

quan


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

Bảng 4.4: Kết quả kiểm định mức độ phù hợp của mô hình hồi quy Bảng 4.5: Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của mô hình

Bảng 4.6: Kết quả chạy hồi quy OLS cho mô hình

Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 2


Bảng 4.7: Kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động đến CTV của các NHTM Bảng 1: Số lượng Ngân hàng tại Việt Nam (Phụ lục 1)

Bảng 2: Quy mô vốn điều lệ và tổng tài sản của một số NHTM của các quốc gia trong khu vực (Phụ lục 1)

Bảng 3: CTV của các NHTM tại Việt Nam qua các năm (Phụ lục 1)


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 4.1: Thể hiện sự phân tán giữa phần dư và giá trị dự đoán của LEV Biểu đồ 4.2: Phân phối của phần dư chuẩn hóa của LEV

Biểu đồ 1: Diễn biến VCSH của các nhóm Ngân hàng (Phụ lục 1)


Biểu đồ 2: Diễn biến tổng tài sản của các nhóm Ngân hàng (Phụ lục 1)


Biểu đồ 3: Diễn biến huy động từ nền kinh tế của các khối Ngân hàng (Phụ lục

1)


Biểu đồ 4: Diễn biến dư nợ tín dụng của các khối Ngân hàng (Phụ lục 1)


Biểu đồ 5: Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD từ năm 2004 – Quý 2/2012 (Phụ lục 1)


DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC


Phụ lục 1: Tổng quan và thực trạng cấu trúc vốn của các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

Phụ lục 2: Đồ thị và thống kê mô tả các biến.


Phụ lục 3: Danh sách các Ngân hàng chọn làm mẫu khảo sát. Phụ lục 4: Số liệu nghiên cứu của đề tài.


TÓM TẮT ĐỀ TÀI


Bài nghiên cứu thể hiện sự tổng hợp về mặt lý thuyết cũng như khảo sát mang tính thực nghiệm về vấn đề cấu trúc vốn (CTV) của hệ thống các Ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam. Dữ liệu được tập hợp từ 30 NHTM đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011. Mô hình nghiên cứu được áp dụng dựa trên nghiên cứu của Sajid Gul cùng cộng sự (2012) trong lĩnh vực Ngân hàng và bảo hiểm tại Pakistan; Khizer Ali, Muhammad Farhan Akhtar, Shama Sadaqat (2011) trong khu vực NHTM ở Pakistan; Mohammed Amidu (2007) nghiên cứu tại các Ngân hàng ở Ghana; Reint Gropp cùng Florian Heider (2009) tại các Ngân hàng lớn ở Mỹ cùng các quốc gia Châu Âu; Hoa Nguyen, Zainab Kayani (2013) nghiên cứu CTV của các Ngân hàng ở Châu Á; và Thian Cheng Lim (2012) tại các công ty tài chính được niêm yết trên thị trường chứng khoán Trung Quốc. Kết quả của đề tài cho thấy rằng những nhân tố tác động đến CTV của các NHTM tại Việt Nam cũng khá phù hợp với các nhân tố tác động đến CTV của các NHTM và công ty tài chính trên thế giới. Cụ thể, mô hình nghiên cứu có các biến độc lập được tiến hành kiểm định bao gồm quy mô Ngân hàng (Size) tương quan tỷ lệ thuận với đòn bẩy tài chính của Ngân hàng; trong khi đó tính thanh khoản (Liquidity), tài sản hữu hình (Tangibility of assets) và tỷ suất sinh lợi (Profitability) tương quan tỷ lệ nghịch với đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, biến cơ hội tăng trưởng (Growth opportunities) là nhân tố không có ý nghĩa thống kê.



1.1. Giới thiệu‌

CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU


Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 đã mang đến cho Việt Nam rất nhiều cơ hội nhưng cũng mang lại không ít thách thức. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với những rủi ro như tăng trưởng kinh tế chậm lại, lạm phát tăng, thâm hụt cán cân thương mại, tình trạng “bong bóng” bất động sản, giảm sút chất lượng đầu tư, bất ổn tỷ giá… đây là một bài toán khá khó khăn cho các cấp quản lý thì những thách thức này lại càng lớn hơn cho lĩnh vực Ngân hàng vì đây là một trong những ngành kinh doanh khá nhạy cảm đối với nền kinh tế trong giai đoạn này.

Ngân hàng được coi là hệ tuần hoàn vốn của nền kinh tế, là một bộ phận không thể thiếu được với hoạt động chủ yếu là tiền tệ, tín dụng và thanh toán, trong đó nghiệp vụ thanh toán đang giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Mặc dù không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, song với những đặc điểm hoạt động riêng có của mình, ngành Ngân hàng đã đóng góp tích cực cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế Việt Nam, cụ thể như: đẩy lùi và kiềm chế lạm phát; góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh thông qua nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng; tạo việc làm cho người dân... Có thể nói Ngân hàng có một vai trò quan trọng trong giai đoạn Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì thế, việc các tổ chức đua nhau thành lập Ngân hàng trong năm 2007 đã làm cho số lượng Ngân hàng nội địa ở nước ta lên đến con số 43 Ngân hàng, trong khi đó năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng chưa cao, quy mô vốn còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới, quản trị vốn chưa hiệu quả, các sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng, chỉ tập trung chủ yếu vào hoạt động cho vay. Và một trong những vấn đề làm đau đầu cho các nhà quản lý Ngân hàng là thiết lập một cơ cấu vốn như thế nào, vốn chủ sở hữu bao nhiêu, tỷ lệ nợ sao cho hợp lý, nguồn huy động vốn từ đâu, cũng như làm thế nào để hạn chế được nợ xấu và đảm bảo tính thanh khoản...


Đến thời điểm hiện nay, việc xây dựng một CTV cho các NHTM tại Việt Nam đang là một đề tài rất được quan tâm, và là một vấn đề mang tính thực tiễn cao, giúp điều chỉnh hiệu quả điều hành hoạt động tài chính của Ngân hàng, giảm tỷ lệ nợ xấu ở mức tối thiểu, tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp cũng như của cổ đông. Để thực hiện được điều đó, các nhà quản trị phải có những quyết định quan trọng nhằm định hướng Ngân hàng đi theo hướng tốt nhất và một trong những quyết định quan trọng này là xác định một CTV tối ưu nhất.

Đối với ngành Ngân hàng, các NHTM thường sử dụng đòn bẩy tài chính cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp phi tài chính. Đó là vì, khoản mục chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng không phải từ nguồn vốn chủ sở hữu (VCSH) mà chính là tiền từ huy động và sử dụng nguồn vốn này như là một sản phẩm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, trong khi đó các doanh nghiệp phi tài chính thì nguồn vốn kinh doanh thông thường đến từ nguồn VCSH và một phần đến từ vốn vay. Chính vì thế, trong cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng nợ luôn chiếm tỷ trọng cao hơn. Tóm lại, dù ở loại hình kinh doanh nào thì các nhà quản trị tài chính cần phải lựa chọn một đòn bẩy tài chính hợp lý nhất cho doanh nghiệp mình.

Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố quyết định đến CTV liên quan đến lĩnh vực Ngân hàng như Hoa Nguyen và Zainab Kayani (2013) đã nghiên cứu đến việc xác định CTV của các Ngân hàng trong Khu vực Châu Á cũng như so sánh sự khác biệt trong CTV Ngân hàng giữa các nước phát triển và nước đang phát triển; Sajid Gul, Muhammad Bilal Khan, Nasir Razzaq, Naveed Saif (2012) với công trình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến CTV của khu vực Ngân hàng và khu vực bảo hiểm tại Pakistan trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2009; Mohammed Amidu (2007) có công trình nghiên cứu về việc xác định CTV của các Ngân hàng tại Ghana trong giai đoạn 1998 – 2003; Reint Gropp, Florian Heider (2009) xác định CTV Ngân hàng tại Mỹ và các quốc gia Châu Âu; Khizer Ali, Muhammad Farhan Akhtar, Shama Sadaqat (2011) với công trình nghiên cứu về những ý nghĩa thực tiễn của lý thuyết CTV và đưa ra bằng chứng


thực nghiệm từ các NHTM tại Pakistan; Paolo Saona Hoffimann (2010) với đề tài về CTV và những thành quả trong ngành Ngân hàng ở Mỹ trong giai đoạn 1995 - 2007; Thian Cheng Lim (2012) với công trình nghiên cứu về việc xác định CTV cũng như đưa ra bằng chứng thực nghiệm tại các công ty dịch vụ tài chính ở Trung Quốc thời kỳ từ 2005 - 2009; Rafiu Oyesola Salawu, Obafemi Awolowo (2007) lại xác định CTV của các công ty tài chính ở Nigeria theo hình thức định tính dựa trên quan điểm, ý kiến của các Giám đốc tài chính; Manuel O.Marques, Mário C.Santos (2003) với đề tài chính sách CTV và việc xác định CTV ở các Ngân hàng tại Bồ Đào Nha…

1.2. Lý do chọn đề tài


Có thể nói, Ngân hàng là ngành có mối quan hệ mật thiết với các biến động của nền kinh tế. Đây cũng chính là ngành chịu ảnh hưởng đầu tiên khi nền kinh tế gặp khó khăn nhưng cũng là ngành phục hồi trước tiên để tạo điều kiện cho nền kinh tế phục hồi và đi vào ổn định.

Trong những năm qua, với tốc độ tăng trưởng nóng của nền kinh tế đã dẫn đến lượng cung tiền tăng nhanh, kéo theo tăng trưởng tín dụng nóng đã làm cho hệ thống Ngân hàng bị mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn và tài sản. Ngân hàng đã sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay dài hạn đồng thời tận dụng quá nhiều nguồn vốn vay liên Ngân hàng với chi phí huy động thấp để cho vay bất động sản và chứng khoán chính điều này đã làm gia tăng rủi ro thanh khoản kéo theo tỷ lệ nợ xấu cũng tăng cao. Việc tái cấu trúc trong lĩnh vực Ngân hàng đang là chủ đề tranh luận nhằm hướng tới một hệ thống Ngân hàng an toàn và hoạt động hiệu quả.

Hầu hết các công trình nghiên cứu trên thế giới về CTV chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp phi tài chính và rất ít công trình nghiên cứu về CTV liên quan đến lĩnh vực Ngân hàng. Có thể là vì, Ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt và khá “nhạy cảm” của nền kinh tế, sản phẩm của quá trình kinh doanh là nguồn tiền từ huy động. Một nguyên nhân khác nữa đó là hoạt động của Ngân hàng luôn phải chịu sự quản lý chặt chẽ từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông qua các quy định


về vốn pháp định, hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR), giới hạn tín dụng, tỷ lệ khả năng chi trả, giới hạn góp vốn - mua cổ phần...

Ở Việt Nam cũng vậy, các nghiên cứu này chỉ được thực hiện đối với các công ty phi tài chính, rất ít nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến CTV của các công ty tài chính đặc biệt là lĩnh vực Ngân hàng. Trong khi đó, lĩnh vực tài chính Ngân hàng với vai trò đặc biệt là trung gian vốn, trung gian thanh toán của nền kinh tế và là đầu mối cho mọi hoạt động lưu thông tiền tệ. Do đó, ổn định tình hình hoạt động của Ngân hàng cũng chính là ổn định đến nền kinh tế. Vì thế, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến CTV trong hệ thống NHTM đang là vấn đề cấp thiết để từ đây các nhà quản trị đề ra được những CTV phù hợp nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp và của cổ đông cũng như khả năng cạnh tranh so với các Ngân hàng nước ngoài. Đây là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của hệ thống Ngân hàng thương mại tại Việt Nam” nhằm tìm hiểu những nhân tố nào thực sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến CTV của các NHTM tại Việt Nam và cũng với hy vọng có thể giúp các NHTM Việt Nam trong việc hoạch định và xây dựng một CTV phù hợp.

1.3. Vấn đề nghiên cứu


1.3.1. Mục tiêu nghiên cứu


Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến CTV cũng như đo lường mức độ tác động của những nhân tố này lên CTV của hệ thống NHTM Việt Nam. Việc nghiên cứu dựa trên áp dụng các lý thuyết cổ điển về CTV và một số nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới cũng như tại Việt Nam để làm sáng tỏ sự tác động của các nhân tố đến CTV đối với NHTM tại Việt Nam. Theo đó, mục tiêu nghiên cứu của đề tài bao gồm:

+ Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến CTV của các NHTM tại Việt Nam dựa trên cơ sở các lý thuyết kinh điển về CTV cũng như các nghiên cứu thực nghiệm trước đây.

+ Mức độ tác động của các nhân tố này đến CTV của các NHTM tại Việt Nam.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/06/2022