Nếu như các công trình trên chủ yếu tập trung giải thích biểu tượng ở mặt lý thuyết thì những tác phẩm sau lại nhằm “giải mã” những biểu tượng cụ thể. Như công trình “Nguồn gốc và sự phát triển của biểu tượng, kiến trúc và ngôn ngữ Đông Sơn” của Tạ Đức [17], “Biểu tượng rồng, văn hoá và những câu chuyện” của Nam Việt [105]. Các tác giả đã không chỉ dừng lại ở việc làm rò khung lý thuyết của biểu tượng mà còn áp dụng nó vào một đối tượng cụ thể. Tuy khía cạnh tiếp cận cũng như phương pháp giải mã biểu tượng có khác nhau nhưng đây được coi là những công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện về một “biểu tượng” cụ thể trong văn hoá cũng như trong kiến trúc truyền thống của Việt Nam.
Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành cũng xuất hiện nhiều bài viết về biểu tượng như của tác giả Phan Đăng Nhật [59], Nguyễn Khắc Xương [108], Tạ Đức [18], Nguyễn Văn Hậu [26], Mai Văn Hai [24], Trang Thanh Hiền [28], Nguyễn Ngọc Mai [58], Vũ Trường Giang [21], Bùi Thị Hoa [31], Bùi Xuân Tiệp [79], Nguyễn Kim Hoa [32], Huỳnh Ngọc Trảng [81], Hoàng Lương [55]…Các tác giả đã tập trung nghiên cứu những biểu tượng cụ thể trong văn hoá các tộc người nhằm bước đầu giải mã chúng. Tuy chưa phải là những chuyên luận sâu, tiếp cận đầy đủ những khía cạnh của biểu tượng nhưng những bài báo trên cũng góp phần làm rò hơn những lý thuyết về nghiên cứu biểu tượng đối với những đối tượng cụ thể trong văn hoá tộc người.
Không tập trung nghiên cứu về một loại hình biểu tượng cụ thể hay nhằm đưa ra những nét khái quát về thuật ngữ này, nhưng đâu đó trong các công trình nghiên cứu văn hoá cũng đã phần nào đề cập đến vấn đề này. Chủ yếu các tác giả tập trung giải mã những biểu tượng quen thuộc trong văn hoá truyền thống Việt Nam, như tác phẩm “Thần, người và đất Việt” của Tạ Chí Đại Trường [87], “Về nguồn văn hoá cổ truyền Việt Nam” của Đông Phong [66], “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm [76], “Văn hoá
Việt Nam đa tộc người” của GS.Đặng Nghiêm Vạn [101], “Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm” của cố GS. Trần Quốc Vượng [107], “Bản sắc văn hoá Việt Nam” của GS.Phan Ngọc [61]…Hình tượng quen thuộc được các tác giả đưa ra giải mã là hình ảnh “con rồng cháu tiên” thể hiện sự thống nhất trong lịch sử cũng như văn hoá của dân tộc. Bên cạnh đó là những biểu tượng liên quan đến các thành tố cơ bản của văn hoá như ăn, mặc, ở, đi lại…mang tính phổ biến của các tộc người.
Bên cạnh những tài liệu mang tính chất tham khảo, định hướng về lý thuyết, còn có những công trình phục vụ trực tiếp cho luận văn. Do đối tượng khảo cứu của luận văn là thần thoại các tộc người về một đề tài cụ thể nên trong những nghiên cứu về văn học dân gian cũng đã phần nào đề cập đến. Đó là công trình của GS.Nguyễn Đổng Chi [6], GS.Đinh Gia Khánh [44], tác giả Phúc Khánh [45], tác giả Ngô Văn Lệ [53], tác giả Hoàng Lương [54], tác giả Lê Ngọc Thắng [74], các công trình về cư dân Tày – Thái của nhà Thái học Cầm Trọng [82] [83] [84] [85] [86], các công trình của GS Đặng Nghiêm Vạn
[90] [91] [92] [93] [94] [95] [96]… Trong các công trình này đã đề cập đến vai trò cũng như ý nghĩa của biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại của các tộc người như là một đề tài phổ biến trong thần thoại giai đoạn đầu, khi con người vừa thoát thai khỏi động vật.
Tuy nhiên, những nhận định này còn tản mát, không được cấu thành những chương mục cụ thể. Trong luận văn này, trên cơ sở kế thừa những nhận định của các tác giả kể trên, chúng tôi cố gắng tập trung, khái quát hoá nhằm bước đầu tiếp cận và giải mã biểu tượng người khổng lồ một cách có hệ thống trên cơ sở đối chiếu, so sánh với thần thoại của các tộc người khác về một đề tài chung. Do vậy mà những tài liệu về văn học cổ các tộc người là nguồn khảo cứu chính để chúng tôi thực hiện đề tài này.
Với ý nghĩa là một nguồn tài liệu quan trọng về xã hội con người thời sơ sử, thần thoại các tộc người nói tiếng Thái nói riêng và các tộc người khác nói chung luôn là bức tranh phản ánh trung thực về thực tế đời sống con người. Trong đó hình ảnh những người khổng lồ - những vị anh hùng thời kỳ dựng nước đã trở thành hình ảnh đại diện cho sức mạnh, trí tuệ của cả cộng đồng. Thông qua hình ảnh những vị thần “đầu đội trời, chân đạp đất, san núi, bạt sông”, con người thể hiện ước vọng chinh phục tự nhiên bằng chính sức lao động và tinh thần cố kết cộng đồng trong buổi đầu lịch sử. Thần thoại không chỉ là hiện thực xã hội con người thời sơ sử, mà nó còn khẳng định sức mạnh của con người trước tự nhiên. Con người không chỉ còn là khách thể thụ động trước những tác động của tự nhiên mà họ đã chủ động tác động trở lại đối với thiên nhiên, buộc thiên nhiên phải phục vụ cho lợi ích của mình. Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại các tộc người cũng chính là để chuyển tải những khát vọng đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong nghiên cứu Dân tộc học – Nhân học ở Việt Nam và trên thế giới hiện nay chưa có được một lý thuyết chung về nghiên cứu biểu tượng. Các tác giả, tuỳ thuộc theo nội dung cũng như đối tượng nghiên cứu cụ thể mà đưa ra những lý thuyết nghiên cứu riêng của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam - 1
- Tính Chất Và Chức Năng Cơ Bản Của Biểu Tượng
- Các Chức Năng Cơ Bản Của Biểu Tượng
- Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam - 5
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
Với đề tài “Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam”, mục đích của luận văn là:
Thứ nhất: sưu tầm và hệ thống kho tàng thần thoại của một số dân tộc nói tiếng Thái về biểu tượng người khổng lồ.
Thứ hai: Giới thiệu khái quát về hệ thống các khái niệm biểu tượng ở Việt Nam và trên thế giới. Qua đó trình bày những biểu tượng về người khổng lồ trong thần thoại một số dân tộc nói tiếng Thái ở Việt Nam trong bối cảnh chung về biểu tượng người khổng lồ trên thế giới.
Thứ ba: Tìm những ý nghĩa và giá trị của biểu tượng người khổng lồ trong đời sống một số dân tộc nói tiếng Thái nhằm nêu lên những đặc trưng văn hoá của tộc người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để triển khai luận án, chúng tôi cũng dựa trên quan điểm coi biểu tượng như là một phương tiện để tiếp cận con người trong buổi đầu của lịch sử. Thông qua một biểu tượng cụ thể là người khổng lồ để tìm hiểu về tâm tư, nguyện vọng, ước mơ của con người trong giai đoạn đầu, khi họ mới thoát thai khỏi thế giới động vật. Có thể coi biểu tượng người khổng lồ là sáng tạo văn hóa đầu tiên của con người nhằm thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên cũng như đề cao khả năng lao động, sáng tạo, cải biến thế giới của con người thời tiền sử. Với hình ảnh những vị thần khổng lồ - nhân vật trung tâm trong lớp thần thoại đầu tiên của lịch sử loài người - một lần nữa vai trò quyết định của lao động đối với tiến trình phát triển lịch sử của nhân loại nói chung được khẳng định. Qua đó nhằm khẳng định vai trò chủ thể của loài người trong vũ trụ mênh mông này.
- Đối tượng nghiên cứu: do không có điều kiện đi điền dã thực tế, luận văn chủ yếu khai thác thần thoại của các tộc người thông qua các công trình sưu tầm, biên soạn, nghiên cứu văn học dân gian sẵn có. Tuy nguồn sử liệu được sử dụng là nguồn sử liệu gián tiếp, nhưng trong quá trình tiếp cận, tác giả cũng có sự so sánh, đối chiếu giữa các dị bản với nhau để có được thông tin chính xác nhất trong điều kiện có thể.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không chỉ dừng lại nghiên cứu về thần thoại của các dân tộc nói tiếng Thái, mà còn mở rộng, so sánh, đối chiếu với thần thoại về người khổng lồ của một số dân tộc khác trong nước và thần thoại các nước khác trên thế giới thông qua các công trình sưu tầm, biên soạn về văn học dân gian của các dân tộc ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Do chưa có nhiều kinh nghiệm trước một đề tài mới mẻ, nên để giải quyết những yêu cầu của luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Tổng hợp và khái quát về lý thuyết biểu tượng của một số tác giả nước ngoài và Việt Nam. Từ đó áp dụng vào giải quyết những vấn đề cụ thể của luận văn là “Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam”.
- Thu thập và tổng hợp về biểu tượng người khổng lồ trong một số cư dân nói tiếng Thái và các tộc người khác ở Việt Nam cũng như trên thế giới thông qua những công trình sưu tầm, biên soạn về văn học dân gian sẵn có.
- Do đặc thù của đối tượng nghiên cứu, những tài liệu thu thập được chủ yếu là những tư liệu gián tiếp nên phải có sự phê phán khách quan, phân tích định tính, đối chiếu, so sánh giữa các dị bản trong khi sử dụng.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh với biểu tượng người khổng lồ ở các tộc người khác (cả trong nước và thế giới) cũng sẽ được sử dụng một các tích cực.
6. Đóng góp của luận văn
- Khai thác một đối tượng nghiên cứu mới dưới góc độ Nhân học của cư dân nói tiếng Thái cũng như loài người về tiến trình phát triển ở thời kỳ sơ sử của nhân loại.
- Coi biểu tượng như là một “phương tiện tiếp cận đối với con người trong xã hội nguyên thuỷ”. Từ đó có cái nhìn sâu sắc hơn về tiến trình lịch sử của các tộc người.
- Gợi ra một cách tiếp cận mới nhằm giải mã những biểu tượng nói chung, về người khổng lồ nói riêng trong nghiên cứu Dân tộc học và Nhân học ở nước ta.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 138 trang, ngoài phần dẫn luận (11 trang), phần kết luận (5 trang) và phần mục lục và tài liệu tham khảo (11 trang), phần nội dung của luận văn gồm 3 chương sau:
- Chương 1: Khái niệm về biểu tượng (32 trang, từ trang 14 đến trang 45)
- Chương 2: Biểu tượng người khổng lồ trong kho tàng thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam (39 trang, từ trang 46 đến trang 85)
- Chương 3: Những giá trị của biểu tượng người khổng lồ trong kho tàng thần thoại một số tộc người nói tiếng Thái ở Việt Nam (40 trang từ trang 86 đến trang 125)
Ngoài ra, luận văn còn có phần phụ lục bao gồm những câu chuyện thần thoại có nhân vật chính là những vị thần khổng lồ trong buổi khai thiên lập địa cùng những dị bản mà chúng tôi sưu tầm được và là đối tượng khảo sát chính của luận văn.
CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG
1.1. Định nghĩa và nguồn gốc của biểu tượng
1.1.1. Khái niệm “biểu tượng”
Biểu tượng là một loại “ký hiệu” cổ xưa, ra đời trong buổi bình minh của lịch sử nhân loại. Biểu tượng được xem như là “vật thay thế” của tư duy trong tiến trình phát triển nhận thức của con người. Hơn nữa, biểu tượng còn là con đẻ của sự liên tưởng và sự tưởng tượng, nó giúp cho người ta khám phá và nhận thức ra một thế giới đầy ý nghĩa, phong phú và đa dạng, nhằm truyền đạt những thông tin và khơi dậy những cảm xúc thường có trong “đời sống tâm lý” của con người.
Ngày nay, vai trò của biểu tượng trong hoạt động xã hội của con người đã được quan tâm và nghiên cứu một cách sâu sắc với tinh thần khoa học. Trí tưởng tượng không còn bị xem nhẹ như trước đây mà nó đã được xác định lại vị trí và được coi là “mặt thứ hai của lý trí”. Không những vậy, biểu tượng còn là nguồn cảm hứng cho các tìm tòi khám phá. Điều đó đã được khẳng định là do phần lớn những hư cấu viễn tưởng có giá trị tiên báo mà khoa học đã từng bước xác minh. Chính vì vậy, hiện nay biểu tượng đang ngày được quan tâm. Vấn đề “giải mã” biểu tượng đang được nhiều ngành hướng tới như tâm lý học, xã hội học, triết học, văn hoá học, Dân tộc học, Nhân học văn hoá…
Vậy, “biểu tượng” (symbol) là gì?
Thuật ngữ “Biểu tượng” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: “Sumbolum” là dấu hiệu, có nghĩa tương ứng với các từ: ký hiệu (sign), hoặc tín hiệu (signal). Cũng có thuyết cho rằng, chữ Symbol bắt nguồn từ động từ Hy Lạp “Symballo” có nghĩa là: “ném vào vị trí”, “liên kết”, “suy nghĩ về”, “thoả
thuận”, “ước hẹn”…
Từ điển Petit Larousse định nghĩa: “Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, con vật sống động hay đồ vật biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó”. Người Trung Hoa quan niệm “biểu” có nghĩa là “dấu hiệu”, “tỏ rò”, “bày ra”… để người ta nhận biết về một điều gì đó; “tượng” có nghĩa là “hình trạng”, “hình tượng”…Do vậy, biểu tượng là một hình tượng nào đó được phô bày ra tạo thành một dấu hiệu tượng trưng, nhằm diễn đạt một ý nghĩa nào đó mang tính trừu tượng.
Để cụ thể hoá một ý niệm trừu tượng nào đó, con người đã chọn một hình ảnh, một tên gọi để diễn đạt một điều vô hình, vô hạn, bất khả tri. Như vậy, biểu tượng là tín hiệu hai mặt, cái biểu thị là dạng thức tồn tại hình tượng hoá hay tên gọi và cái được biểu thị là những giá trị của ý niệm ẩn dấu bên trong nó.
Con người sống đồng thời với ba thế giới : thế giới thực tại - tồn tại khách quan, là cái có trước và độc lập với nhận thức của con người ; thế giới ý niệm – là hình ảnh về thế giới thực tại được con người cảm nhận bằng khả năng tri giác của bản thân ; và thế giới biểu tượng - tức là hình ảnh về thế giới hiện thực được con người cảm nhận qua thế giới ý niệm. Qua thế giới biểu tượng, con người có thể tư duy và thông báo cho nhau bức tranh về thế giới ý niệm nằm trong đầu anh ta. Do vậy, biểu tượng là vật thay thế, là cầu nối giữa thế giới ý niệm và thế giới thực tại bằng cách đưa cái vô hình, vô hạn, vô khả tri vào cái hữu hình, hữu hạn, khả tri, làm cho con người có thể cảm nhận được cái thế giới ý niệm trong mỗi cá nhân. Thế giới ý niệm giúp cho con người ngày càng xích lại gần nhau hơn.
1.1.2. Nguồn gốc của biểu tượng
Theo quan điểm mác - xít thì “ngôn ngữ là hiện thực của ý thức” (K.Marx). Chính lao động và ngôn ngữ đã góp phần biến đổi người vượn trở thành người. Nhờ vào hoạt động trí tuệ mà sức mạnh của tập đoàn người và sức mạnh của mỗi cá nhân sống trong tập đoàn đó được nâng lên gấp bội.