nhất về mặt nội dung của một hành vi, một lời nói, một tư tưởng với những hàm nghĩa tiềm ẩn của chúng. Một khi nhận ra một điều gì đó thì ít nhất là có hai phần ý nghĩa. Chúng thay thế cho nhau bằng cách vừa che lấp lại vừa bộc lộ mà ta có thể gọi mối quan hệ đó là quan hệ có “tính biểu tượng”. Đặc trưng mối quan hệ này thường có một sự ổn định nhất định giữa các yếu tố bộc lộ và tiềm ẩn của biểu tượng. Theo nhiều nhà phân tâm học, cái được biểu trưng bao giờ cũng là vô thức. C.G.Jung đã nhận định: “Biểu tượng không phải là một phúng dụ, cũng chẳng phải là một dấu hiệu đơn giản, mà đúng ra là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất ta mơ hồ nghi hoặc của tâm linh” [5,trXXIV]
* Tính chất thiêng liêng của biểu tượng
Đại bộ phận biểu tượng ngày hôm nay vẫn còn lưu dấu ấn của thời đại cổ xưa mà người ta có thể nhận ra, và quy chiếu chúng vào tư duy nguyên thuỷ với hệ thống “biểu tượng sơ khai”. Những dạng thức đó được xem là những “khuôn mẫu hành vi”. Chính những dạng thức này đã được khắc sâu vào trong “vô thức” của cộng đồng. Đồng thời nó cũng được sắp xếp theo trình tự của một “văn bản”. Chúng biểu hiện ra như những “cấu trúc tâm lý” mang tính phổ biến, có tính chất như là một hạt nhân “di truyền xã hội” và trở thành “ý thức cộng đồng”. Những hệ thống khuôn mẫu đó có vai trò như là những động lực cấu kết toàn cộng đồng lại với nhau.
Theo nhận định của F.Hegel, các biểu tượng vẫn tồn tại bên trong nó những yếu tố “thiêng liêng” mà cả cộng đồng vẫn một lòng giữ gìn và tôn kính. Tính chất thiêng liêng đó chính là do các biểu tượng đã có tác dụng nối liền các tâm hồn lại với nhau, đó chính là mục đích, là nơi hội tụ mọi ước mơ, khát vọng của cả một cộng đồng người.
Qua đó ta thấy, bên trong các biểu tượng luôn hàm chứa những “giá trị truyền thống”. Những giá trị này được đúc kết, tích luỹ hàng nghìn thế hệ
trong quá trình hoạt động - lịch sử. Chúng chi phối và qui định toàn bộ thế ứng xử và giao tiếp của con người. Tất cả những điều đó đã khiến cho con người liên kết gần lại với nhau và biểu tượng trở thành “cái thiêng liêng” trong nội bộ cộng đồng xã hội. Ở đây, cái thiêng liêng không biểu hiện ở ý nghĩa “thần linh hoá” mà là một niềm tin được “thiêng hoá” để trở thành sức mạnh, thành niềm tự hào của cả cộng đồng dân tộc. Đó chính là “cái cao cả”, “cái trác tuyệt” có trong mỗi biểu tượng.
* Tính khó xác định và sinh động của biểu tượng
Lịch sử ngôn ngữ cho biết, từ “biểu tượng” bắt nguồn từ một tập quán xã hội Hy Lạp cổ đại, nói về một phiến đá bị đập vỡ, được chia thành nhiều mảnh và chia đều cho mỗi thành viên trong một bộ tộc nào đó, trước sự phân ly của họ. Sau này, khi các thành viên được tập hợp lại, họ đem những mảnh vỡ đó ghép lại (Sumballein), nhằm xác nhận sự hiện diện trở lại của toàn nhóm. Tương tự như vậy, một vật nào đó như mảnh sứ, vỏ ốc hay kim loại được cắt làm đôi giao cho mỗi bên giữ một nửa trước khi chia tay. Sau này khi gặp lại, ráp hai mảnh cắt vào nhau thì hai người sẽ nhận ra nhau. Về sau, khi nhận thức của con người được nâng cao, biểu tượng mới trở thành một loại “siêu ký hiệu” với tính đa dạng, đa nghĩa của nó.
Bản chất khó xác định và sống động của biểu tượng chính là sự chia ra và ghép lại với nhau. Nó hàm chứa hai ý tưởng phân ly và kết hợp. Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ, ý nghĩa của biểu tượng luôn biến ảo. Nó bộc lộ ra trong cái vừa gẫy vỡ, vừa nối kết, vừa xuất hiện, lại vừa mất đi, khiến cho tư duy luôn phải truy tìm, liên tưởng và muốn nắm bắt lấy vô vàn những ý nghĩa còn tiềm ẩn ngay trong lòng của nó.
Trong cuốn từ điển nổi tiếng của mình, các tác giả J.Chevalier và A.Gheerbrant cho rằng: “Tự bản chất của nó (biểu tượng), nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái cực lại trong cùng một ý niệm. Nó
Có thể bạn quan tâm!
- Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam - 1
- Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam - 2
- Tính Chất Và Chức Năng Cơ Bản Của Biểu Tượng
- Biểu tượng người khổng lồ trong thần thoại một số cư dân nói tiếng Thái ở Việt Nam - 5
- Khái Quát Về Một Số Cư Dân Nói Tiếng Thái Ở Việt Nam
- Một Số Đặc Điểm Kinh Tế, Văn Hoá, Xã Hội Truyền Thống
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
giống như mũi tên bay mà không bay, đứng im mà biến ảo, hiển nhiên mà lại không nắm bắt được. Ta sẽ cần phải dùng các từ để gợi ra một hay nhiều ý nghĩa của một biểu tượng” [5, tr XIV].
Biểu tượng bộc lộ rồi lủi trốn, càng phơi bày sáng rò thì nó càng tự giấu mình đi. Nói như Georges Gurvitchs: “Các biểu tượng tiết lộ mà che giấu và che giấu mà tiết lộ” [5, tr XIV].
Vấn đề được đặt ra ở đây là, vì tính khó xác định và năng động đó của biểu tượng mà ta có thể nhận thức, “giải mã” được biểu tượng hay không?
Câu trả lời là: có. Ta có thể nhận thức được biểu tượng ở một góc độ nào đó chứ không thể nhận thức toàn diện được mọi khía cạnh của biểu tượng. Đứng trước bất kỳ một biểu tượng nào, ta có thể nhận thức nó ở những khía cạnh rất khác nhau, chứ không thể giải mã hết được biểu tượng. Bởi “nếu cái phần giấu kín một ngày nào đó lộ ra hết, thì biểu tượng sẽ chết” [5, trXXV]. Do vậy, giá trị của biểu tượng được xác định chính trong sự chuyển vượt từ cái đã biết sang cái chưa biết, từ cái đã diễn đạt sang cái khó biểu lộ bằng lời nói. Nó luôn là sự thách thức đối với nhận thức của nhân loại trong toàn bộ tồn tại của mình. Chính vì thế, tuy đứng trước những biểu tượng được coi là thân quen, gần gũi nhưng nó vẫn luôn mới mẻ, luôn kích thích sự tìm tòi, khám phá của con người. Khi đó biểu tượng mới thực sự “sống” theo đúng nghĩa của nó.
Nói tóm lại, biểu tượng là một vật đa nghĩa, đa dạng trong cách biểu hiện, với tính khó xác định và thật sinh động của nó. Ta có thể “tri giác” được ở mặt này, nhưng lại “bất tri giác” ở mặt khác. Nó khơi gợi cho chúng ta thật nhiều ý nghĩa, nhưng không bao giờ ta có thể nắm bắt được hết. Có thể xem nó như một viên kim cương nhiều mặt, nhiều cạnh, phản xạ lại sự khác nhau của nguồn sáng, tuỳ theo từng mặt tiếp cận với ánh sáng mà ta có thể nhìn nhận được nó. Biểu tượng tồn tại trong lịch sử. Nó không xoá bỏ thực tại,
không xoá bỏ ký hiệu. Ngược lại, nó thêm vào cho thực tại, cấp cho ký hiệu những giá trị, những quan hệ hợp lý theo cách riêng của nó. Chúng cùng tồn tại giữa thế giới, vũ trụ, con người và thần thánh. Nó thống nhất được các mặt và đưa con người ta vào thế giới tưởng tượng. Điều này đã được J.Chevalier và A.Gheerbrant nhận thức:
“Biểu tượng vượt ra ngoài giới hạn của lý trí thuần tuý, nhưng không vì thế mà rơi vào phi lý. Nó không phải là trái quả chín muồi của một kết luận logic, do một biện luận chặt chẽ. Lối phân tích bằng cách cắt vụn và đập nhỏ ra không thể nắm bắt được sự phong phú của biểu tượng; trực giác không phải bao giờ cũng đạt được điều đó; phải tổng hợp và đồng cảm hết mực, nghĩa là chia sẻ và cảm nghiệm một cách nhìn nào đó về thế giới…Mỗi biểu tượng là một vũ trụ vi mô, một thế giới toàn vẹn”. [5, tr XXVII].
1.2.2. Các chức năng cơ bản của biểu tượng
Biểu tượng được sáng tạo ra nhờ năng lực “tượng trưng hoá” của con người. Với những đặc tính riêng, biểu tượng có những chức năng mà qua đó con người có thể nhận thức sâu sắc về bản thân, về cuộc sống, đồng thời tạo nên những biến đổi to lớn trong sự phát triển toàn diện về nhân cách, trí tuệ của mỗi con người, cũng như của cả cộng đồng – xã hội. Bản chất của biểu tượng là một loại ngôn ngữ - ký hiệu nên nó cũng có những chức năng như ngôn ngữ vậy.
Những chức năng cơ bản của biểu tượng là:
* Chức năng thông tin:
Nền văn hoá nào cũng có sự truyền đạt thông tin - những giá trị định hướng cho toàn cộng đồng, nhằm thoả mãn những nhu cầu, khát vọng của con người. Cũng giống như ngôn ngữ, biểu tượng có chức năng thông tin trong đời sống xã hội.
Bằng những kinh nghiệm đã trải qua cùng với trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và của từng nhóm - cộng đồng, con người có thể rút ra nhiều hơn những thông tin còn tiềm ẩn trong lòng mỗi biểu tượng. Bởi lẽ bản thân mỗi biểu tượng đều mang tính đa nghĩa. Tuy nhiên, việc tiếp nhận thông tin từ biểu tượng cần tránh thái độ đứng nhìn, mà đòi hỏi thái độ nhập cuộc. Thái độ và sự tiếp nhận thông tin mang tính chủ quan, nhưng đòi hỏi sự nhạy cảm và kinh nghiệm vốn có, chứ không theo lối khái niệm hoá thông tin.
Việc hiểu thấu các biểu tượng phụ thuộc vào sự tiếp nhận trực tiếp nào đó của xúc cảm nhiều hơn là sự nhận thức thuần lý. Đương nhiên các nhà nghiên cứu lịch sử, các so sánh liên văn hoá hoặc tiếp cận liên ngành để nghiên cứu và giải thích biểu tượng sẽ góp phần làm cho việc nắm bắt thông tin từ các biểu tượng có cơ sở, đỡ phiêu lưu trong thế giới tinh thần.
* Chức năng khám phá
Trong vũ trụ tự nhiên cũng như trong đời sống con người và xã hội được tạo nên bởi những yếu tố mà con người có thể “tri giác” hoặc “không tri giác” được.
Biểu tượng sống động nảy sinh từ còi vô thức của con người và từ trong lòng đời sống thực tại, nó thực hiện chức năng khám phá. Biểu tượng đưa con người tiếp cận với những vấn đề mà họ chưa biết, thực hiện chức năng truy tìm và diễn đạt ý nghĩa trong cuộc phiêu lưu tinh thần của con người qua mọi không gian và thời gian. Nó cho phép ta nắm bắt được những mối liên hệ (bằng sự liên tưởng và tưởng tượng) mà lý trí khó xác định được.
Biểu tượng luôn mở rộng “trường ý thức” vào một lĩnh vực không có sự đo đếm chính xác, cụ thể theo kiểu tư duy logic, mang tính khoa học. Với biểu tượng, nó luôn bao hàm một điều gì đó thật mơ hồ, chưa biết và thường bị che dấu đối với con người. Khi trí óc muốn khám phá hay thăm dò một
biểu tượng, thì phải truy tìm những ý tưởng nằm bên ngoài những gì mà lý trí có thể nắm bắt được.
Chính vì có vô số những điều nằm ngoài giới hạn sự hiểu biết của con người như: thượng đế, linh hồn, ma quỷ, địa ngục, thiên đàng… nên con người thường dùng biểu tượng để diễn đạt hoặc giải thích những khái niệm khó xác định, hoặc chưa hiểu được trọn vẹn. Đối với tư duy biểu tượng, không có gì là khó giải thích. Có thể nói, biểu tượng là “mũi nhọn thăm dò của trí tuệ” [27,tr 54].
* Chức năng thay thế
Để nắm bắt được những điều khó nắm bắt, như những vấn đề thuộc lĩnh vực tôn giáo và huyền thoại…, con người đã dùng một “vật môi giới” được gọi là “biểu tượng”.
Như vậy, biểu tượng đã thực hiện chức năng thay thế nhằm trả lời một câu hỏi, hay giải quyết một vấn đề gì đó đang còn khúc mắc, hoặc nhằm thoả mãn một mong muốn, một ước vọng nào đó đang còn mù mờ trong còi vô thức. Biểu tượng giúp con người nhận thức được những gì mà họ được trải qua bằng kinh nghiệm chứ không nghiêng về nhận thức lý tính thuần tuý. Đó cũng là sự thống nhất giữa “ý thức” và “vô thức” nằm trong quá trình nhận thức của con người.
* Chức năng giao tiếp xã hội
Với các chức năng nêu trên, con người tự hoàn thiện một bước về mặt nhận thức với sự cảm nhận “mình trong tất cả và tất cả trong mình”. Từ đó, con người bớt đi những mặc cảm về cái tôi riêng lẻ và sẽ không còn thái độ tách mình ra khỏi cộng đồng cũng như ra khỏi thời đại mà mình đang sống. Do vậy, mỗi biểu tượng đều có thể trở thành công cụ giao tiếp giữa các cá nhân và toàn thể cộng đồng xã hội.
Về thực chất, biểu tượng là một loại hình ngôn ngữ - ký hiệu được sử dụng trong giao tiếp. Bởi vì mọi người đều có thể hiểu được những hàm nghĩa có trong nó mà không cần phải qua một ngôn ngữ trung gian nào khác, nếu một khi nó trở thành ngôn ngữ biểu tượng chung của toàn thế giới. (Ví dụ như hình tượng “chim bồ câu” tượng trưng cho hoà bình…). Từ các biểu tượng đã phát đi những thông báo, khiến cho con người có thể tiếp nhận nó một cách thuận tiện. Phương thức nhận thức biểu tượng chính là phương thức nhận thức thiên về trực giác, cảm tính mang yếu tố thẩm mỹ, chúng có năng lực làm rung động sâu sắc đến tâm hồn mỗi con người. Khi biểu tượng trở thành ngôn ngữ giao tiếp quốc tế, nó sẽ vượt qua các rào cản của ngôn ngữ, lịch sử, lãnh thổ quốc gia, văn hoá và tôn giáo…, để giúp cho mọi người trên hành tinh này có thể hiểu biết nhau hơn.
* Chức năng liên kết xã hội
Đây là chức năng mang ý nghĩa xã hội rò nét. Bởi một khi giá trị - ý nghĩa của biểu tượng vẫn còn “dư âm” vang vọng trong tâm hồn của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng xã hội, thì nó đủ sức thôi thúc, khiến mọi người trong cộng đồng đó xích lại với nhau, tạo thành “sức mạnh liên kết” của toàn cộng đồng.
Ví dụ như: “Cờ búa liềm”, “Cờ tổ quốc”…là những biểu tượng luôn có khả năng tập hợp những người cùng nhóm lại với nhau.
Như vậy, biểu tượng được xác định bằng lí do ra đời của nó. Biểu tượng là dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài để nhận biết tính “sở thuộc cộng đồng”. Chính biểu tượng đã tồn tại trong lòng cộng đồng và mỗi thành viên trong cộng đồng đó. Nó tạo nên sự cố kết cộng đồng, giúp cho quan hệ của nhóm trong cộng đồng càng thêm bền chặt. Nếu một lí do nào đó khiến cho nhóm tan rã cũng sẽ dẫn đến sự “giải thiêng” của biểu tượng vì nó đã bị thoái hoá và sẽ bị mất đi.
* Chức năng định hướng giá trị
Trong mỗi thời kỳ lịch sử của mỗi cộng đồng – dân tộc, thậm chí mỗi giai cấp, mỗi nhóm cộng đồng đều có hệ biểu tượng riêng của mình. Đó là sự biểu hiện cho những giá trị định hướng mỗi cộng đồng. Chúng là các giá trị cốt lòi nằm trong hệ giá trị chung của toàn xã hội. Các giá trị định hướng được xác định bởi hệ thống biểu tượng, quy định các chuẩn mực cho mọi thành viên trong xã hội thực hiện theo. Mỗi thể chế xã hội đều có một hay nhiều hệ thống biểu tượng, quy định thế ứng xử và giao tiếp cho cá nhân và toàn thể cộng đồng. Qua đó ta có thể nhận thấy những đặc điểm riêng của một nền văn hoá. Tức là có thể nhận diện “bản sắc văn hoá” của mỗi cộng đồng – dân tộc.
1.3. Sự phân loại biểu tượng
Thế giới biểu tượng là thế giới của ý nghĩa. Nó vô cùng sinh động và phức hợp, vừa phong phú về mặt nội dung, vừa đa dạng về hình thức biểu hiện. Sự phức hợp đó của biểu tượng là do một “nội dung” có thể có nhiều “hình thức” thể hiện. Và ngược lại, một “hình thức” lại có thể biểu đạt bằng nhiều “nội dung” khác nhau. Mỗi ý nghĩa của biểu tượng lại nói lên một mặt biểu hiện của đời sống xã hội. Có bao nhiêu biểu hiện trong đời sống xã hội là có bấy nhiêu ý nghĩa tương ứng có trong từng biểu tượng. Do vậy, việc phân loại biểu tượng là một việc làm hết sức khó khăn và phức tạp nên không thể đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối trong quá trình phân loại này.
Trong tác phẩm của mình, hai tác giả J.Chevalier và A.Gheerbrant đã đưa ra nhiều cách phân loại biểu tượng mang tính hệ thống. Song, hai ông cho rằng, tất cả các tìm tòi ấy đều có công phác hoạ ra những cái khung tiện cho việc trình bày nhưng chưa đưa ra được một khung phân loại biểu tượng một cách hoàn chỉnh và mẫu mực. Bởi những sự phân loại đó nhằm “tách biểu tượng ra như là những dấu hiệu, những kết cấu, những mẫu giải thích về xã hội hay tôn giáo, những đồ vật để nhận biết; khuynh hướng đó không biết đến