Bảo vệ tài nguyên rừng bằng pháp luật hình sự ở Việt Nam - 8


4

Bắc Giang

701

571

501

495

476

238

5

Bắc Kạn

981

1.312

1.128

828

709

310

6

Bạc Liêu

100

12

0

20

0

0

7

Bắc Ninh

85

82

37

0

0

0

8

Bình Phước

2.382

1.707

1.649

921

754

428

9

Bà Rịa Vũng

Tàu

157

112

62

49

72

130

10

Bình Thuận

1.778

1.622

1.256

1.040

1.312

466

11

Bến Tre

20

25

41

57

37

15

12

Cao Bằng

178

367

378

213

278

107

13

Cà Mau

676

625

133

231

413

130

14

Cần Thơ

0

0

0

0

1

0

15

Điện Biên

601

530

464

355

539

298

16

Đắc Lắc

1.866

1.679

1.305

1.951

2.060

1.374

17

Đồng Nai

478

724

446

371

412

169

18

Đắc Nông

1.369

1.186

897

751

858

622

19

Đồng Tháp

47

26

36

36

37

22

20

Gia Lai

1.978

1.670

1.642

1.422

1.601

552

21

Hậu Giang

11

19

3

5

0

7

22

Hoà Bình

359

367

307

333

202

95

23

TP.HC.Minh

291

233

195

145

163

60

24

Hải Dương

79

84

71

108

86

32

25

Hà Giang

347

399

69

2

27

1

26

Hà Nam

9

0

0

6

0

1

27

TP.Hà Nội

114

144

70

131

127

40

28

TP.Hải Phòng

4

5

0

0

0

0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Bảo vệ tài nguyên rừng bằng pháp luật hình sự ở Việt Nam - 8


29

Hà Tĩnh

970

884

485

562

634

236

30

Hưng Yên

23

20

11

15

9

5

31

Kiên Giang

490

447

387

131

100

80

32

Khánh Hòa

829

725

535

557

620

373

33

Kon Tum

1.097

866

780

1.090

1.034

6

34

Long An

14

30

36

23

13

1

35

Lào Cai

344

273

237

162

284

115

36

Lai Châu

266

297

238

260

239

137

37

Lâm Đồng

2341

2.621

2.048

2.207

2.111

1.039

38

Lạng Sơn

1.167

1.579

866

16

13

9

39

Nghệ An

1.731

1.395

1.195

1.372

1.269

685

40

Ninh Bình

66

50

29

27

6

12

41

Nam Định

23

22

34

17

32

11

42

Ninh Thuận

1.356

1.008

823

907

1.113

482

43

Phú Thọ

365

320

217

211

197

86

44

Phú Yên

1.447

1.662

1.357

1.269

960

435

45

Quảng Bình

657

927

764

1.236

1

679

46

Quảng Nam

2.651

1.946

1.427

1.411

1.170

719

47

Quãng Ngãi

713

333

396

348

533

182

48

Quảng Ninh

553

585

341

307

303

145

49

Quảng Trị

698

713

480

493

465

236

50

Sơn La

1.397

1.265

650

38

826

0

51

Sóc Trăng

50

192

189

120

90

5

52

Thái Bình

0

0

0

0

0

0

53

Tiền Giang

0

0

1

0

0

0

54

Thanh Hoá

1.327

1.578

1.343

1.043

1.002

475


55

Thái Nguyên

1355

1.249

1.435

1.046

675

227

56

Tây Ninh

348

312

357

248

308

128

57

TP.Đà Nẵng

221

212

145

114

162

75

58

Tuyên Quang

1.568

1.833

1.473

1.359

1.359

596

59

Thừa Thiên

Huế

1.137

925

814

818

859

338

60

Trà Vinh

54

63

49

0

33

0

61

Vườn quốc gia

Bạch Mã

44

20

0

13

0

0

62

Vườn quốc gia

Ba Vì

43

8

6

15

16

5

63

Vườn quốc gia

Cúc Phương

40

17

18

18

14

21

64

Vườn quốc gia

Cát Tiên

194

687

568

299

257

106

65

Vĩnh Long

0

0

0

0

0

0

66

Vĩnh Phúc


54

24

1

25

6

67

Vườn quốc gia

Tam Đảo

20

25

4

7

10

0

68

Vườn quốc gia

Yokđon

279

340

90

547

592

420

69

Yên Bái

701

700

462

257

242

87

(Nguồn: Website: http://www.kiemlam.org.vn) [33].

Từ kết quả thống kê về địa bàn xảy ra vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên rừng từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2013 như đã nêu trên cho thấy tính phức tạp của hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên rừng. Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật ở hầu hết các địa phương

trên phạm vi cả nước. Điều đáng chú ý là các khu rừng Quốc gia được các cơ quan chức năng đặc biệt quan tâm bảo vệ, nhưng trong những năm gần đây các khu rừng này cũng đang bị xâm hại nghiêm trọng và chiều hướng ngày càng tăng, điều này được chứng minh qua (bảng thống kê Số 2) nêu trên. Việc nghiên cứu địa bàn hoạt động của các đối tượng vi phạm pháp luật về tài nguyên rừng có ý nghĩa quan trọng giúp các cơ quan chức năng xác định được nơi nào xảy ra vi phạm lâm luật nhiều, từ đó có định hướng và có giải pháp đấu tranh phòng, chống đạt hiệu quả cao, góp phần tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta phát triển bền vững.

* Về công tác điều tra, truy tố

Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự là chuỗi mắt xích liên hoàn của hoạt động tư pháp và cũng chính là một trong những hoạt động then chốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng nói riêng. Trong chuỗi hoạt động tố tụng đó đều có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do đó phải đồng bộ nhịp nhàng và tương trợ cho nhau. Tuy nhiên, hoạt động điều tra là hoạt động khởi đầu của chuỗi tố tụng, quyết định thu thập các chứng cứ để chúng minh hành vi phạm tội, các chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các vấn đề khác liên quan đến vụ án.

Thực tiễn từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2013 cho thấy tổng số vụ vi phạm pháp luật xâm hại đến tài nguyên rừng xảy ra trên toàn quốc là đáng kể, thế nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu xử các hành vi ấy bằng biện pháp hành chính là chủ yếu. Số vụ được khởi tố điều tra, truy tố, xét xử chiếm tỷ lệ thấp so với số vụ vi phạm lâm luật được phát hiện, điều này được chứng minh qua số liệu thống kê các vụ vi phạm lâm luật dưới đây:

Năm 2008, cả nước đã phát hiện 42.429 vụ vi phạm Luật bảo vệ rừng và phát triển rừng (tăng 2.926 vụ so với năm 2007). Các cơ quan chức năng

đã xử lý 36.067 vụ; Trong đó: Xử phạt hành chính 36.327 vụ; Xử lý hình sự 280 vụ, với 221 bị can; số vụ đưa ra xét xử 20 vụ, với 19 bị cáo [9].

Năm 2009, cả nước đã phát hiện 40.841 vụ vi phạm Luật bảo vệ rừng và phát triển rừng. Các cơ quan chức năng đã xử lý 34.327 vụ, trong đó: Xử phạt hành chính 34.004 vụ; Xử lý hình sự 323 vụ, với 207 bị can; số vụ đưa ra xét xử 47 vụ, với 52 bị cáo [9].

Năm 2010, cả nước đã phát hiện 31.769 vụ vi phạm Luật bảo vệ rừng và phát triển rừng. Các cơ quan chức năng đã xử lý 28.888 vụ; Trong đó: Xử phạt hành chính 28.496 vụ; Xử lý hình sự 392 vụ, với 180 bị cáo; số vụ đưa ra xét xử 44 vụ, với 46 bị cáo [9].

Năm 2011, cả nước phát hiện đã phát hiện 29.551 vụ vi phạm Luật bảo vệ rừng và phát triển rừng. Các cơ quan chức năng đã xử lý 25.644 vụ; Trong đó: Xử phạt hành chính 25.344 vụ; Xử lý hình sự 300 vụ, với 227 bị cáo; số vụ đưa ra xét xử 61 vụ, với 62 bị cáo [9].

Năm 2012, cả nước đã phát hiện 28.565 vụ vi phạm Luật bảo vệ rừng và phát triển rừng. Các cơ quan chức năng đã xử lý 24.882 vụ. Trong đó: Xử phạt hành chính 24.438 vụ; Xử lý hình sự 344 vụ, với 304 bị cáo; số vụ đưa ra xét xử 50 vụ, với 52 bị cáo [9].

Sáu tháng đầu năm 2013, cả nước đã phát hiện 13.612 vụ vi phạm Luật bảo vệ rừng và phát triển rừng. Các cơ quan chức năng đã xử lý 11.464 vụ. Trong đó: Xử phạt hành chính 11.331 vụ; Xử lý hình sự 133 vụ, với 109 bị cáo; số vụ đưa ra xét xử 16 vụ, với 19 bị cáo [9].

Từ số liệu thống kê về tình hình vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực tài nguyên rừng như đã nêu trên cho thấy, hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến tài nguyên rừng ngày càng tăng, nhưng trong thực tiễn các cơ quan chức năng chủ yếu chỉ xử lý hành chính. Đây là một thực trạng mà các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu lại, nếu không xử lý nghiêm minh sẽ dẫn đến hệ lụy

khó lường và tài nguyên rừng của nước ta khó có thể được bảo vệ một cách tốt nhất, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vũng của nền kinh tế quốc gia. Nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của kiểm sát viên còn hời hợt, chưa thể hiện hết trách nhiệm của kiểm sát viên trong công tác kiểm sát điều tra, dẫn đến nhiều đối tượng bị bỏ lọt, hoặc chuyển xử lý hành chính mà không truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, quá trình xét xử cũng chưa thật sự nghiêm minh, mức án tuyên đối với các bị cáo chưa tương xứng với hành vi và hậu quả mà chủ thể tội phạm gây ra cho xã hội, điều này thể hiện qua việc áp dụng hình phạt tù có điều kiện (cho bị cáo được hưởng án treo quá nhiều).

Địa bàn có tài nguyên rừng phân bố rộng, xa khu dân cư và thường là nơi có rừng núi hiểm trở, trong khi lực lượng bảo vệ và quản lý rừng chủ yếu là kiểm lâm, với số lượng, chất lượng và kỹ năng nghiệp vụ còn nhiều hạn chế, nên việc phát hiện hành vi vi phạm pháp luật để xử lý triệt để là việc làm không dễ.

*Về công tác xét xử các vụ án xâm hại đến tài nguyên rừng:

Qua nghiên cứu việc xét xử các vụ vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên rừng mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố điều tra, truy tố và xét xử trong những năm gần đây cho thấy, kết quả việc xử lý chưa nghiêm, các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp áp dụng chế tài hình sự đối với đa số các bị cáo chưa tương xứng với hành vi và hậu quả mà người phạm tội gây ra cho xã hội. Hầu hết các đối tượng phạm tội được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ để chuyển xuống khung hình phạt liền kề và áp dụng mức án thấp nhất của khung này hoặc tuyên xử cho bị cáo được hưởng án treo.

+ Cấp sơ thẩm xét xử mức án nhẹ, không tương xứng với hành vi phạm tội:

Qua nghiên cứu nhiều vụ án có hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng mà Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm ở một số địa phương đã xét xử từ năm

2009 đến tháng 6 năm 2013, nhận thấy tỷ lệ bị cáo bị xử án tù giam còn hạn chế, số bị cáo còn lại tuy hành vi gây ra cho xã hội là rất nghiêm trọng, lẽ ra phải áp dụng hình phạt tù để đảm bảo tính răn đe giáo dục phòng ngừa, nhưng phần lớn Toà cấp sơ thẩm áp dụng điều 60 Bộ luật hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo là không thoả đáng, điển hình là các vụ:

Vụ thứ nhất: Phan Ngọc Hòa, Phan Văn Ngưỡng, Thái Duy Long ở thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, bị khởi tố về tội hủy hoại rừng quy định tại Điều 189 Bộ luật hình sự. Các bị cáo đã có hành vi: Tháng 8/2008 Phan Ngọc Hòa, Phan Văn Ngưỡng, Thái Duy Long đã thuê người chặt phá cây rừng để chiếm đất.

Tháng 9/2008, Hòa thuê Nguyễn Vĩnh Khương cùng 8 người khác vào khu vực rừng được Nhà nước giao cho ủy ban nhân dân xã Nhơn Tân, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định quản lý, các đối tượng này đã chặt phá rừng với diện tích rừng phòng hộ 17.031m2, rừng sản xuất 1.100m2, trữ lượng gỗ rừng non IIA bị chặt phá 55,3m3, tổng giá trị thiệt hại 110.600.000 đồng. Hành vi của các bị cáo Hòa, Ngưỡng, Long bị Viện kiểm sát thị xã An Nhơn truy tố về tội hủy hoại rừng theo điểm c, khoản 3, điều 189 Bộ luật hình sự, với tình tiết định khung “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” có mức hình phạt từ 07 đến 15 năm tù [16].

Qua thực tiễn xét xử vụ án nêu trên, cho thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, đã chặt phá và hủy hoại một khối lượng lớn thực vật rừng thuộc nhóm IIA, có giá trị kinh tế cao, có chức năng phòng hộ đầu nguồn; gây mất cân bằng môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương; xâm hại đến sự bền vững và ổn định của môi trường, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trong vụ án này cả ba bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo

điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, như nhận định của bản án là đúng. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử quá nhấn mạnh các tình tiết giảm nhẹ và vận dụng điều 47 Bộ luật hình sự, chuyển xuống khung hình phạt liền kề có mức án thấp hơn để xét xử đối với các bị cáo là không tương xứng với hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử đã tuyên xử bị cáo: Phan Ngọc Hòa: 3 năm 6 tháng tù; Thái Duy Long: 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo; Phan Văn ngưỡng: 3 năm tù.

Vụ thứ hai: Năm 2008 các bị cáo Ngô Thị Hoa, Võ phi Hùng đã có hành vi hủy hoại 12.309m2 diện tích đất rừng và gây thiệt hại trữ lượng lâm sản 37,5m3 trên khu vực rừng phòng hộ do Ủy ban nhân dân xã Nhơn Tân, thị xã An Nhơn quản lý. Hành vi của các bị cáo bị truy tố và xét xử theo tình tiết định khung “Hủy hoại rừng phòng hộ” quy định tại điểm b, khoản 3 Điều 189 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài nguyên rừng của đất nước một cách trái pháp luật.

Bị cáo Hoa đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục một phần hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải.

Bị cáo Hùng bồi thường thiệt hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là lao động chính trong gia đình.

Riêng đối với Võ Thị Giàu con ruột bị cáo Hoa, mặc dù đã có hành vi chặt cành cây và dọn dây leo theo yêu cầu của bị cáo Hoa, Hùng, nhưng không vì mục đích tư lợi cá nhân, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự mà xử lý hành chính [17].

Trong vụ án nêu trên, bị cáo Võ Phi Hùng được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng nhiều tình tình giảm nhẹ và điều 47 Bộ luật hình sự chuyển xuống khung liền kề [Khoản 2 Điều 189 Bộ luật hình sự] và xử: Tuyên xử bị cáo Võ Phi Hùng 3 năm tù. Bị cáo Ngô Thị Hoa bị xử 3 năm tù, nhưng cho hưởng án treo.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 30/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí