Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng - Thực trạng và giải pháp - 9

Bộ Ngoại giao có trách nhiệm: Chỉ đạo, hướng dẫn Cơ quan đại diện ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài thực hiện các công tác sau: bảo hộ lãnh sự, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam làm việc ở nước sở tại phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước đó là thành viên, phối hợp với các cơ quan chức năng trong nước xử lý những vấn đề phát sinh liên quan đến người lao động Việt Nam làm việc ở nước sở tại (Điều 9 Nghị định 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007).

Bộ Công an có trách nhiệm: Phối hợp với Cơ quan đại diện ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền kịp thời điều tra, xử lý đối với những trường hợp phát hiện có dấu hiệu tội phạm theo quy định của pháp luật; Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cơ quan đại diện ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài trong việc tiếp nhận người lao động Việt Nam bị phía nước tiếp nhận lao động trục xuất hoặc bị buộc về nước; Khởi tố, điều tra đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (Điều 10 Nghị định 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007).

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp của Nhà nước quản lý người lao động của địa phương làm việc ở nước ngoài; Giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của pháp luật; Kiểm tra, thanh tra và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài của các doanh nghiệp tại địa phương; Báo cáo định kỳ, đột xuất Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về tình hình người lao động đi làm việc ở nước ngoài của địa phương (Điều 14 Nghị định 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8

năm 2007).

Các cơ quan, tổ chức quyết định thành lập doanh nghiệp dịch vụ xuất khẩu lao động có trách nhiệm phối hợp chỉ đạo giải quyết các vấn đề liên quan người lao động do doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý đưa đi làm việc ở nước ngoài trong trường hợp doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản; Hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp thuộc phạm vi quản lý giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến quyền lợi của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý người lao động làm các ngành nghề đặc thù thuộc lĩnh vực do Bộ, ngành Trung ương quản lý (Điều 15 Nghị định 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007).

Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm: Bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của đại diện các doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp Việt Nam tại nước ngoài trong việc quản lý, xử lý các vấn đề phát sinh đối với người lao động; Báo cáo và kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết đối với những trường hợp có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật Việt Nam; Phối hợp với các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam và cơ quan, tổ chức của nước sở tại để đưa người lao động vi phạm về nước (khoản 1, 5,6,7 Điều 71 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng).

Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra về hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật

về thanh tra.(Điều 72 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng)

Thực tế thực hiện trách nhiệm bảo vệ người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài của cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân thời gian qua đã được triển khai tích cực. Ví dụ: Đầu tháng 4/2013 làn sóng đòi về nước trước hạn của các công nhân xây dựng ở Libya lan rộng, tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đang có lao động làm việc ở thị trường này đều vô cùng lo lắng. Nắm bắt được tình hình đó, Cục Lãnh sự (Bộ ngoại giao) đã vào cuộc và điều tra được nguyên nhân là do căng thẳng giữa những người lao động và chủ sử dụng lao động, việc thanh toán chậm lương, tiền làm thêm giờ, điều kiện sinh hoạt khó khăn; thiếu sự cảm thông giữa người lao động với chủ sử dụng lao động, một phần khác do ngân sách 2013 của Libya mới được Quốc hội thông qua ngày 19/3/2013. Nhận thấy nhiều vấn đề bất lợi mà người lao động ở Libya đang gặp phải, Cục quản lý lao động ngoài nước đã chỉ đạo sát sao doanh nghiệp cố gắng giải quyết quyền lợi chính đáng cho người lao động. Một số doanh nghiệp đã cử cán bộ phụ trách sang Libya làm việc với cả người lao động và chủ sử dụng, vừa yêu cầu chủ sử dụng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán thu nhập cho người lao động, vừa giải thích cho người lao động hiểu đây là rủi ro bất khả kháng và có sự cảm thông với chủ sử dụng. Những lao động không còn nguyện vọng làm việc ở Libya đã được các doanh nghiệp hỗ trợ đặt vé máy bay cho lao động về nước và nỗ lực hết sức để đáp ứng nguyện vọng và quyền lợi khác của người lao động.[27]

Các cơ quan chức năng và doanh nghiệp Việt Nam đã nỗ lực hết sức song thực tế còn rất nhiều người lao động không được bảo về một cách thỏa đáng vì người lao động cả tin vào những kẻ lừa đảo xuất khẩu lao động như vụ việc hơn 50 lao động nữ bị Trần Thị Phương (sinh năm 1982, ngụ xã Hải Quang, huyện Hải Hậu - Nam Định) đưa sang Malaysia làm giúp việc nhà trái phép. Nhiều

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

người lao động bị chủ sử dụng đưa đến bỏ trước cổng Đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia trong tình cảnh không tiền, không giấy tờ tùy thân. [28]

Công tác quản lý lao động làm việc ở nước ngoài của nhiều doanh nghiệp thực hiện cũng chưa thường xuyên hoặc còn mang tính chiếu lệ. Các thông tin về thị trường lao động ngoài nước, về bên tiếp nhận lao động và về bản thân người lao động ở nước ngoài chưa đầy đủ làm cho việc bảo vệ người lao động đang làm việc ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn hoặc không thể thực hiện được khiến cho không ít người lao động bị lợi dụng, bóc lột, xâm hại, đặc biệt là đối với lao động nữ. Không chỉ vậy, nhiều trường hợp khi những người lao động này cầu cứu đến Công ty môi giới thì thay vì làm việc, đàm phán với chủ sử dụng để giải quyết quyền lợi cho người lao động thì công ty môi giới lại giải quyết theo hướng không chịu được thì bỏ, làm cho chủ mới, thực trạng này đang diễn ra khá phổ biến ở Đài Loan, và đang là thách thức lớn đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các doanh nghiệp.

Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng - Thực trạng và giải pháp - 9

Giống như giai đoạn trước khi đi làm làm việc ở nước ngoài, trong giai đoạn đang làm việc ở nước ngoài người lao động Việt Nam cũng chưa nhận được sự quan tâm và bảo vệ thỏa đáng của Công đoàn trong việc giải quyết tranh chấp lao động. Sự hợp tác giữa Công đoàn Việt Nam với Công đoàn các nước tiếp nhận lao động Việt Nam còn yếu và mờ nhạt. Trong quá trình quản lý lao động ở nước ngoài, việc lập Công đoàn hoặc bổ nhiệm người đại diện lao động trong tập thể lao động ở mỗi xí nghiệp ngoài nước để bảo vệ quyền lợi cho người lao động hầu như chưa có.

- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hành vi vi phạm xâm phạm đến quyền và lợi ích của người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Khiếu nại, tố cáo và khởi kiện là những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và Pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Người lao động có thể thực hiện quyền này ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình di cư, song có lẽ trong

thời gian làm việc ở nước ngoài là giai đoạn thường xuyên phát sinh nhất những mâu thuẫn, tranh chấp về quyền lợi có liên quan đến người lao động, nguyên nhân là do ở giai đoạn này người lao động có thể cân đo đong đếm được những chi phí mà họ phải bỏ ra và những quyền lợi mà họ đang nhận có tương xứng không, những “hứa hẹn”, cam kết trước đó của doanh nghiệp trong các bản hợp đồng có được thực hiện một cách nghiêp túc không.

Khi phát hiện ra có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài xâm phạm đến quyền và lợi ích của bản thân, người khác hoặc của nhà nước, người lao động dù đang ở nước ngoài nhưng vẫn có thể khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật Việt Nam đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ các quyền lợi chính đáng. Người lao động có thể gửi đơn hoặc khiếu nại, tố cáo trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền gần nhất như: Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, Cục quản lý lao động ngoài nước. Khi có tranh chấp về quyền với doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động ra nước ngoài làm việc mặc dù đã thương lượng, hòa giải nhưng không thành, người lao động có thể khởi kiện ra tòa án Việt Nam để yêu cầu giải quyết.

Trình tự về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo của người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011 và các văn bản hướng dẫn. Thực trạng bảo vệ quyền được khiếu nại, tố cáo và khởi kiện của người lao động Việt Nam khi đang làm việc ở nước ngoài ngày càng được nâng cao bởi nhận thức pháp luật của người lao động ngày càng một tăng lên, bộ máy các cơ quan tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo từ người lao động của các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam ngày càng hoạt động tích cực. Từ năm 2007 đến 2010, cơ quan chuyên ngành đã tiếp nhận, xử lý 1.184 khiếu nại của người lao động; thanh tra và xử lý vi phạm hành chính 119 lượt doanh nghiệp,

thu hồi giấy phép của 4 doanh nghiệp [41]; 7 tháng đầu năm 2013, riêng Cục quản lý lao động ngoài nước đã tiếp nhận được 60 đơn thư của người lao động tố cáo sai phạm của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm 2012 [24].

Quy định về khởi kiện và yêu cầu giải quyết tranh chấp liên quan đến người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được thực hiện theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và các văn bản hướng dẫn. Cụ thể:

Tranh chấp giữa người lao động và doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được giải quyết trên cơ sở hợp đồng ký giữa các bên và quy định của pháp luật Việt Nam.

Tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động nước ngoài được giải quyết trên cơ sở thỏa thuận đã ký giữa các bên và quy định pháp luật của nước tiếp nhận người lao động, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thoả thuận quốc tế mà bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ký với bên nước ngoài.

Tranh chấp giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với người sử dụng lao động hoặc bên môi giới nước ngoài được giải quyết trên cơ sở thỏa thuận đã ký giữa các bên và quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước tiếp nhận người lao động, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thoả thuận quốc tế mà bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ký với bên nước ngoài.(Điều 73 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng).

Bộ luật lao động năm 2012 quy định việc giải quyết tranh chấp lao động nói chung và tranh chấp lao động trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài nói riêng dựa trên nguyên tắc: Tôn trọng,

bảo đảm để các bên tự thương lượng, quyết định trong giải quyết tranh chấp lao động; Bảo đảm thực hiện hoà giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật. Do đó, các bên trong quan hệ lao động có thể thỏa thuận lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp (thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án), cơ quan giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận trước thì việc giải quyết tranh chấp dựa vào quy định của pháp luật Việt Nam, quy định pháp luật quốc gia tiếp nhận và các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Bộ luật lao động hướng dẫn cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân liên quan đến người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là Hoà giải viên lao động và Toà án nhân dân (Điều 200), người lao động và tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thể thỏa thuận lựa chọn hòa giải viên và Tòa án giải quyết tranh chấp trong hợp đồng (Điều 33, 35). Tranh chấp lao động về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng không cần thông qua thủ tục hòa giải trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết (Điểm đ, Khoản 1, Điều 201). Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là Tòa án nhân dân cấp huyện.

Quy định việc giải quyết tranh chấp theo cách dẫn chiếu như thế đáp ứng được sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, tuy nhiên sự dẫn chiếu này lại hết sức chung chung, “Tranh chấp giữa người lao động và doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài”, “Tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động nước ngoài”, “Tranh chấp giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với người sử dụng lao động hoặc bên môi giới nước ngoài” là những

tranh chấp gì, tranh chấp được “giải quyết trên cơ sở hợp đồng ký giữa các bên và quy định của pháp luật Việt Nam”, “quy định pháp luật Việt Nam” là quy định nào?, nguyên tắc giải quyết tranh chấp ra sao, ngoài những dẫn chiếu đó thì hiện nay pháp luật cũng chưa có hướng dẫn chi tiết nào hơn về giải quyết tranh chấp liên quan đến người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Với trình độ hiểu biết hạn chế, nhiều trường hợp người lao động không biết nên gửi đơn đến cơ quan nào để bảo vệ quyền lợi của mình.

- Thanh tra và xử lý vi phạm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động

Nội dung pháp luật về thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài luôn được bảo đảm trong suốt quá trình người lao động đi làm việc ở nước ngoài song trong giai đoạn người lao động đã ra nước ngoài làm việc thì nội dung bảo vệ này được thể hiện một cách rõ nét nhất, bởi các hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân được phát hiện rõ ràng nhất khi các tổ chức, cá nhân này đã đưa được người lao động ra nước ngoài làm việc, các hành vi vi phạm được phát hiện chủ yếu thông qua phản ánh khiếu nại, tố cáo của người lao động và hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước

Thanh tra hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là một trong những nội dung có ý nghĩa vô cùng thiết thực trong việc phát hiện sai phạm và chấn chỉnh hoạt động của các tổ chức, cá nhân liên quan nhằm bảo vệ người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài tốt hơn. Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ngày 24/4/2013 về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội để thay thế cho Nghị định số 31/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 03 năm 2006. Theo đó, từ 15/6/2013, Cục Quản lý lao động ngoài nước có thêm nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành để tăng cường bảo vệ người Việt Nam

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/12/2022