Thị trường Nhật Bản có sự tăng trưởng vượt bậc với 54.504 lao động (24.502 lao động nữ). Các thị trường khác như Đài Loan là 66.926 lao động; Hàn Quốc với 5.178 lao động; Ả rập Xê út là 3.626 lao động; Malaysia với 1.551 lao động; Algeria với 760 lao động… Cùng với Đài Loan, Nhật Bản cũng được đánh giá là một thị trường xuất khẩu lao động nhiều tiềm năng. Đặc biệt, đây là một trong các thị trường có điều kiện làm việc và thu nhập tốt, được nhiều lao động Việt Nam quan tâm và đăng ký tham gia.
Tính đến hết tháng 12/2017, số lượng thực tập sinh được phái cử sang Nhật Bản đạt 54.504 người, bằng 136,47% so với cùng kỳ năm 2016 theo báo cáo của Hội nghị tổng kết công tác năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm 2018 và công bố quyết định của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TBXH) ngày 18/01/2018, nâng tổng số thực tập sinh Việt Nam đang thực tập tại Nhật Bản lên hơn 100 nghìn người, vượt Trung Quốc và trở thành nước có số lượng thực tập sinh phái cử nhiều nhất trong số 15 nước phái cử thực tập sinh sang Nhật Bản. Trong đó, thị trường Nhật Bản có sự tăng trưởng vượt bậc với 54.504 lao động (trong đó, có
24.502 lao động nữ), tăng 36,47% so với năm 2016, nâng tổng số thực tập sinh Việt Nam đang thực tập tại Nhật Bản lên hơn 100 nghìn người (nhiều nhất trong 15 nước có thực tập sinh tại Nhật Bản). Qua đánh giá, trong năm 2017, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Một số thị trường xuất khẩu lao động chính tiếp tục có nhu cầu tuyển dụng lao động Việt Nam cao như thị trường: Đài Loan, Nhật bản. Các thị trường khác vẫn có nhu cầu tiếp nhận ổn định, riêng thị trường Nhật Bản nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam ngày càng tăng, đa dạng về ngành nghề. Một số thị trường có nhu cầu tuyển dụng một số nhóm ngành nghề mới mà Việt Nam có khả năng đáp ứng tốt, có nhu cầu đưa đi như điều dưỡng, hộ lý và lao động trong một số lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, lao động có tay nghề, kỹ thuật cao, tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động khi lựa chọn phương án đi làm việc ở nước ngoài. Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21 tháng 9 năm 1973. Đến nay, hai nước đã xây dựng và không ngừng phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác rất gắn bó và toàn diện. Quan hệ hai nước đã đạt đến một đỉnh cao mới, trở thành “đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh Châu Á”.
Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba toàn cầu. Nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài của Nhật Bản rất lớn, mỗi năm tiếp nhận hơn 100.000 thực tập sinh nước ngoài, trong đó có khoảng 6.000 thực tập sinh Việt Nam. Nhật Bản được đánh giá là thị trường tiềm năng rất lớn cho thực tập sinh Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có gần 20.000 thực tập sinh đang làm việc tại Nhật Bản trong 63 nhóm ngành nghề khác nhau, là quốc gia có số lượng thực tập sinh lớn thứ hai trong tổng số 15 quốc gia phái cử, chỉ sau Trung Quốc, vượt lên trên Indonesia, Philippines và Thái Lan.
Nhìn chung, lao động Việt Nam được thị trường chấp nhận, đa số nỗ lực, chủ động học tập, nắm bắt công việc, sáng tạo va cần cù trong lao động, được chủ lao động quý mến. Thu nhập của lao động Việt Nam ở nước ngoài tương đối ổn định, có thể cao gấp 2-3 lần so với thu nhập trong nước cùng ngành nghề, trình độ. Sau khi trừ các chi phí sinh hoạt, thu nhập của lao động còn khoảng 2-3 triệu đồng/tháng ở thị trường sử dụng lao động giản đơn như Ma-lay-xi-a, và 6-7 triệu đồng/tháng tại thị trường có thu nhập trung bình như UAE. Tại Hàn Quốc, Nhật Bản, người lao động có mức thu nhập cao hơn, lên đến 15-20 triệu đồng/tháng. Công việc của lao động Việt Nam tập trung vao một số ngành nghề như sản xuất chế tạo, may mặc, điện tử, giúp việc gia đình, hộ lý, thuyền viên,... Có thể nói phụ thuộc vào từng nước tiếp nhận mà nghề nghiệp của lao động ở mỗi nơi có khác nhau.
Bảng 3.2: Tình hình lao động Việt Nam đang làm việc tại nước ngoài/vùng lãnh thổ bên ngoài và mức thu nhập trung bình hằng tháng năm 2014
Nước/vùng lãnh thổ có lao động Viêt Nam | Số lao động Việt Nam đang làm việc | Lương trung bình (USD/tháng) | Thu nhập khác trung bình (USD/tháng) | |
1 | Đài Loan | 138926 | 650 | 200 |
2 | Hàn Quốc | 54392 | 1000 | 250 |
3 | Nhật Bản | 26164 | 1400 | 200 |
4 | Malaysia | 20108 | 300 | 111 |
5 | Lào | 15532 | 300 | 113 |
6 | Campuchia | 12335 | 250 | 94 |
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Cho Người Lao Động Việt Nam Làm Việc Ở Nước Ngoài
- Chế Độ Bảo Hiểm Xã Hội Đối Với Người Lao Động Việt Nam Làm Việc Ở Nước Ngoài.
- Thực Trạng Và Kiến Nghị Nhằm Hoàn Thiện Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Cho Người Việt Nam Lao Động Ở
- Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản - 8
- Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản - 9
Xem toàn bộ 79 trang tài liệu này.
Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ LĐ-TB-XH.
Hiện nay tình hình lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài đang ngày càng tăng nhanh chính vì vậy việc bảo vệ quyền và các lợi ích cơ bản của họ cần được chú trọng. Một lần nữa càng khẳng định việc nghiên cứu bảo vệ NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài hoàn toàn phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay.
3.2. Thực trạng Pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản.
Bảo vệ người lao động là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt trong hệ thống pháp luật lao động Việt Nam với triết lí người lao động là kẻ yếu trong quan hệ lao động, trên thị trường lao động và lực lượng lao động xã hội là nguồn tài nguyên vô giá của quốc gia. Tình hình người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ở Nhật Bản ngày càng tăng nhanh. Trong đó, người lao động đi làm việc ở nước ngoài là đối tượng cần quan tâm đặc biệt bởi vì họ là người “phải sống xa gia đình, xa quê hương, tổ quốc, xa những người hướng dẫn, hỗ trợ và bảo vệ; chính vì vậy, họ rất dễ bị bóc lột, phân biệt đối xử và xâm phạm các quyền”. Ngoài ra người lao động làm việc ở nước ngoài cũng gặp phải những vấn đề khó khăn như: họ phải lo các chi phí học tiếng, học nghề, phương tiện đi sang nước khác làm việc, ký kết hợp đồng làm việc, đặt cọc tiền...Thực tế cho thấy, nhiều người đã phải cầm cố toàn bộ tài sản trong nước thậm chí là đi vay tiền để lo các chi phí chuẩn bị đi lao động ở nước ngoài, nhiều trường hợp bị lừa hết tiền mà vẫn không được đi; Cũng có những trường hợp do không hiểu biết nên đã ký hợp đồng bất lợi cho mình...
Tình hình người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cả nước đưa được 134.751 lao động đi nước ngoài làm việc vào năm 2017, vượt 28,3% so với kế hoạch năm và bằng 106,7% so với tổng số lao động đi xuất khẩu trong năm 2016. Đây là năm thứ tư liên tiếp số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài vượt mức 100.000 lao động/năm. Trong đó, thị trường Nhật Bản có sự tăng trưởng vượt bậc với 54.504 lao động (trong đó, có 24.502 lao động nữ), tăng 36,47% so với năm 2016, nâng tổng số thực tập sinh Việt Nam đang thực tập tại Nhật Bản lên hơn 100 nghìn người (nhiều nhất trong 15 nước có thực tập sinh tại Nhật Bản).
Người lao động làm việc ở nước ngoài được hưởng quyền lợi như người lao động làm việc trong nước trong đó quyền về an sinh xã hội cũng được nhấn mạnh trong khuôn khổ đa chiều về lao động di trú của ILO. Hệ thống chế độ BHXH là nội dung chính của pháp luật BHXH, pháp luật BHXH cụ thể hóa chính sách vào trong các chế độ, với các quy định về đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, thời gian hưởng và mức trợ cấp BHXH trong từng chế độ cụ thể. Bên cạnh đó chế độ BHXH dành cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cũng còn chưa được thực sự
chú trọng. Chế độ BHXH áp dụng cho NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài được chia thành hai trường hợp. NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức hợp đồng cá nhân thì chỉ được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Tuy nhiên, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài thì vẫn hưởng đầy đủ các chế độ BHXH như chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ TNLĐ-BNN, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
Trong báo cáo của Vụ BHXH (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) trong 9 tháng đầu năm 2016 chỉ có khoảng 1500 NLĐ làm việc ở nước ngoài tham gia BHXH trên tổng số mấy chục nghìn lao động xuất cảnh
Còn thống kê của BHXH Việt Nam cho thấy, sau gần một năm triển khai quy định đóng BHXH bắt buộc của NLĐ đi làm việc ở nước ngoài của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, hiện có tất cả 4.878 NLĐ ở nước ngoài tham gia BHXH. Con số này quá thấp so với số lượng hơn 100 nghìn lao động xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài mỗi năm, và rất thấp so với mấy trăm nghìn lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài.
Phần lớn người lao động Việt Nam đi sang Nhật Bản dưới hai hình thức là thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và thông qua hình thức đưa tu nghiệp sinh, thực tập sinh thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài. Hai hình thức trên phổ biến nhất trong số các hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên vẫn phải kể đến trường hợp NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng đang ngày càng tăng lên. Một trong số các doanh nghiệp trúng thầu cử NLĐ sang làm việc ở Nhật Bản phải kể đến là Công ty Cổ phần FPT Software.
Đào tạo “10.000 kỹ sư cầu nối” là 1 trong 2 chương trình chiến lược của FPT cho thị trường Nhật Bản, đã được FPT chính thức công bố triển khai từ trung
tuần tháng 11/2014. Theo đó, từ năm 2015 đến 2018, FPT đặt mục tiêu đào tạo
10.000 kỹ sư cầu nối cho thị trường Nhật Bản nhằm giúp FPT nói riêng và các công ty CNTT của Việt Nam nói chung đủ khả năng tiếp nhận lượng công việc ủy thác dịch vụ CNTT (IT Outsourcing) từ Nhật Bản, đồng thời giúp các công ty Nhật Bản có thêm nguồn kỹ sư CNTT trẻ. Trong số 10.000 kỹ sư cầu nối đào tạo cho thị trường Nhật của FPT, sẽ có 5.000 học viên được đào tạo tại Nhật và số còn lại được đào tạo tại Việt Nam. Với chương trình đào tạo tại Việt Nam, cùng với các khóa đào tạo nội bộ, FPT Software cũng liên kết, hợp tác với các trường đại học trên toàn quốc để tăng thêm nguồn lực cho chương trình. Đối với chương trình đào tạo 5.000 kỹ sư cầu nối tại Nhật, năm 2015, FPT Software dự kiến sẽ đưa khoảng 500 học viên sang Nhật Bản đào tạo theo chương trình du học. Với các học viên được đào tạo tại Nhật, FPT Software cam kết bảo lãnh tài chính và tạo điều kiện tốt nhất về việc làm tại Nhật với mức lương tối thiểu 2.000 USD/tháng.
Trong khi đó, nếu làm việc ở Hàn Quốc, NLĐ phải đặt cọc 450 USD để đóng bảo hiểm hồi hương, bảo hiểm rủi ro, thất nghiệp. Sang Nhật Bản làm việc, người lao động Việt Nam vẫn được tham gia đầy đủ các loại bảo hiểm theo pháp luật Nhật Bản như bảo hiểm xã hội, y tế, bảo hiểm an toàn lao động…khám sức khỏe định kỳ theo quy định của chính phủ Nhật Bản.
Có thể thấy NLĐ Việt Nam thường tham gia chế độ BHXH dài hạn như chế độ hưu trí và chế độ tử tuất theo quỹ BHXH Việt Nam còn tham gia chế độ BHXH ngắn hạn tại Nhật Bản do phần lớn người lao động Việt Nam đi sang Nhật Bản dưới hai hình thức là thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và thông qua hình thức đưa tu nghiệp sinh, thực tập sinh thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài. Bên cạnh việc tìm hiểu các chế độ hưu trí và chế độ tử tuất ở Việt Nam thì các chế độ BHXH Nhật Bản bao gồm hai phần: A) BHXH (bảo hiểm hưu trí, BHYT); B) Bảo hiểm lao động (bảo hiểm việc làm, bảo hiểm bồi thường tai nạn cho người lao động) [53].
Chế độ hưu trí Nhật Bản được chia ra làm hai loại hình chính là: 1) Chế độ bảo hiểm hưu trí quốc gia áp dụng đối với công dân Nhật Bản tuổi từ 20 đến dưới 60 và thực hiện tự nguyện cho người dân Nhật Bản ở trong nước từ 60 đến dưới 65 tuổi, ở nước ngoài từ 20 đến dưới 65 tuổi; 2) Chế độ hưu trí cho người lao động thực hiện cho người lao động dưới 65 tuổi làm việc tại các tổ chức, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương, tại các công ty, tập đoàn, trường học tư.
Bảo hiểm hưu trí quốc dân cũng tương tự bảo hiểm quốc dân, đây là loại bảo hiểm bắt buộc áp dụng bắt buộc cho tất cả mọi người dân, bao gồm cả người nước ngoài có tư cách lưu trú tại Nhật Bản. Mục đích của loại bảo hiểm này là trợ cấp cho người già, người tàn tật và gia quyến của người đã mất.
Bảo hiểm hưu trí phúc lợi loại bảo hiểm này chỉ áp dụng cho những doanh nghiệp sử dụng NLĐ theo diện biên chế, mục đích chính là để trợ cấp cho người già, người tàn tật và gia quyến của những người đã mất. Phí bảo hiểm do doanh nghiệp tiếp nhận và người lao động cùng trả, mỗi bên một nửa. Truy lĩnh lương hưu một lần khi thôi bảo hiểm hưu trí. Do thời gian thực tập sinh kỹ năng tại Việt Nam là ngắn hạn nên bảo hiểm hưu trí quốc dân và Bảo hiểm hưu trí phúc lợi sẽ hỗ trợ truy lĩnh lương hưu một lần khi thôi bảo hiểm. Trước khi về nước thực tập sinh kỹ năng có thể làm thủ tục để truy lĩnh một lần lương sau khi thôi bảo hiểm.
Bảo hiểm trợ cấp hưu trí áp dụng người đi làm trên 20 tuổi, làm trong công ty có từ 5 nhân viên trở lên phải tham gia bảo hiểm trợ cấp hưu trí. Người làm việc bán thời gian có tổng giờ làm việc và số ngày làm việc trên 3/4 so với giờ người làm việc chính qui cũng phải tham gia đóng bảo hiểm trợ cấp hưu trí (trường hợp người làm việc thời vụ có thời gian làm việc dưới tỉ lê 3/4 này, nhưng nếu có điều kiện lao động như làm viêc trên 20 giờ/tuần, có khả năng sẽ được tuyển dụng trên 01 năm, có tiền lương trên 88,000 yen/tháng, NLĐ không phải là học sinh-sinh viên, làm việc thường xuyên cho công ty có trên 501 nhân viên… thì phải tham gia đóng bảo hiểm này). Số tiền phải đóng được chia theo tỷ lệ 50% mỗi bên giữa NLĐ và công ty. Tuy nhiên mức đóng này khác nhau do mức lương và mức thưởng khác nhau. Công ty thực hiện việc đóng phí bảo hiểm này cho nhân viên. Nếu bạn không tham gia bảo hiểm trợ cấp hưu trí thì bạn phải tham gia đóng bảo hiểm trợ cấp quốc dân. Mức đóng bảo hiểm này không phụ thuộc vào thu nhập, hàng tháng được ấn định là 16,260 yên (năm 2016) [58]. Đối với bảo hiểm trợ cấp hưu trí và bảo hiểm trợ cấp quốc dân có “Chế độ hoàn tiền lại tạm thời”. Theo chế độ này, người nước ngoài khí sống và làm việc tại Nhật trên 6 tháng có tham gia đóng các loại bảo hiểm trên, trong 02 năm kể từ khi ra khỏi Nhật có quyền làm đơn xin hoàn lại tiền hưu trí.
Bảo hiểm khám chữa bệnh ở Nhật được chia thành 2 loại. Pháp luật quy định rõ người dân phải tham gia một trong hai loại bảo hiểm này. Ở Nhật Bản chi phí khám chữa bệnh khá đắt, nhưng tham gia bảo hiểm, chi phí khám chữa bệnh sẽ
được bảo hiểm chi trả phần lớn. Người nước ngoài đang đăng ký lưu trú nếu có tư cách cư trú trên 3 tháng có thể tham gia bảo hiểm sức khỏe quốc dân. Bảo hiểm y tế quốc dân là loại bảo hiểm này bắt buộc, tất cả người dân và người nước ngoài đang sinh sống tại Nhật đều phải đóng, bảo hiểm này sẽ thực hiện trả chi phí điều trị y tế trong trườn hợp bị bênh hay bị thương. Trong đó bảo hiểm hỗ trợ lên đến 70% phí điều trị nếu bạn khám, chữa bệnh tại các bệnh viện. Người tham gia bảo hiểm chỉ chịu 30% chi phí y tế (người chưa đi học chịu 20%, người trên 70 tuổi và dưới 74 tuổi chịu 20%, (từ trước ngày 1 tháng 4 năm 2015 người vừa tròn 70 tuổi chịu 10%, người có thu nhập trên mức qui định chịu 30%). Những chi phí phụ phát sinh khi nhập viện có thể không được tính vào chi phí bảo hiểm chi trả. Bảo hiểm y tế phúc lợi cũng chi trả 70% chi phí điều trị cho người lao động. Phí bảo hiểm do xí nghiệp và người lao động cùng trả, mỗi bên một nửa.
Bảo hiểm việc làm là một chế độ bảo hiểm bắt buộc do Chính phủ quản lý liên quan đến việc làm một cách toàn diện, cung cấp các phúc lợi bao gồm: 1) Các trợ cấp thất nghiệp: trợ cấp tìm việc; trợ cấp xúc tiến việc làm; trợ cấp đào tạo và dạy nghề; trợ cấp tiếp tục làm việc; 2) Ba loại dịch vụ: a) ổn định việc làm: ngăn ngừa thất nghiệp, cải thiện điều kiện làm việc, tăng cơ hội việc làm; b) Phát triển nguồn nhân lực: phát triển, trau dồi năng lực cho người lao động bằng việc xây dựng và quản lý các cơ sở đào tạo; c) Phúc lợi xã hội cho người lao động: tư vấn, dịch vụ hỗ trợ tìm việc làm, tuyển dụng.
Bảo hiểm bồi thường tai nạn cho người lao động (WACI) cung cấp bảo hiểm cho các tai nạn vì các lý do thương tật, ốm đau, tàn tật, chết của người lao động tại nơi làm việc hoặc trên đường đi đến nơi làm việc. Đến 3/2001 đã có khoảng 2,7 triệu đơn vị thực hiện WACI và bảo hiểm cho khoảng 48.550 nghìn lao động. Phúc lợi của chế độ WACI được chia làm hai phần: 1) Phúc lợi thương tật khi làm việc và trên đường đi đến nơi làm việc gồm: bồi thường chi phí y tế, trợ cấp 1 lần do mất khả năng lao động tạm thời, bồi thường thương tật và ốm đau, bồi thường tàn tật, trợ cấp tuất, mai táng phí, trợ cấp chăm sóc dài ngày; Phúc lợi phòng tránh bệnh tật gồm kiểm tra y tế và hướng dẫn về y tế sau khi kiểm tra; 2) Các dịch vụ phúc lợi lao động: dịch vụ phục hồi chức năng, dịch vụ hỗ trợ cho người bị thương tật, dịch vụ bảo đảm an toàn và điều dưỡng; dịch vụ bảo đảm điều kiện làm việc.
Bảo hiểm tai nạn lao động là chế độ chi trả các trợ cấp bảo hiểm cần thiết ví dụ như phí điều trị cho người lao động khi bị thương, bị bệnh hoậc tử vong mà nguyên nhân do làm việc hoặc đi làm. Bảo hiểm tai nạn lao động được áp dụng đối với cả người nước ngoài, chỉ cần đang làm việc tại Nhật Bản.
Phí bảo hiểm do chủ sử dụng lao động đóng góp và được thu cùng với phí bảo hiểm việc làm dưới hình thức thống nhất là “Phí bảo hiểm lao động”. Tỷ lệ đóng góp được phân loại theo ngành nghề trên cơ sở tần suất tai nạn lao động và một số yếu tố khác. Hiện tại tỷ lệ thấp nhất là 0,55% (ngành thương mại) và cao nhất 13,3% (xây dựng trạm thủy điện, đường ống).
NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản không tham gia chế độ BHXH ngắn hạn ở Việt Nam như chế độ thai sản, chế độ TNLĐ-BNN,… điều này gây ảnh hưởng đến xây dựng quỹ BHXH ở Việt Nam. Đây là sự bất bình đẳng giữa NLĐ trong nước và NLĐ làm viêc ở nước ngoài. Họ đều là NLĐ nên đều phải được bình đẳng về quyền tham gia BHXH, an sinh xã hội. Bên cạnh đó chế độ thai sản thì cần có điều kiện đóng bảo hiểm tối thiểu mới được hưởng chế độ cụ thể là chế độ thai sản đủ 06 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh con, viêc qui định trên đã gây thiệt thòi cho lao động nữ. Việc đi lao động ở nước ngoài đã phần nào làm gián đoạn thời gian tham gia BHXH của NLĐ ảnh hưởng trực tiếp tới việc nhận các chế độ có yêu cầu thời gian tối thiểu tham gia quỹ BHXH. Mặc dù họ được tham gia các chế độ BHXH ngắn hạn tại Nhật Bản tuy nhiên các chế độ BHXH đều chỉ áp dụng trong phạm vi quốc gia Nhật Bản. Vậy trường hợp người lao động quay trở về nước do ốm đau hoặc sinh con sẽ không được thụ hưởng chế độ này, mặc dù họ có tham gia tại Nhật. Còn khi về Việt Nam, do không tham gia các chế độ BHXH ngắn hạn tại Việt Nam nên họ sẽ không được thụ hưởng các trợ cấp thai sản hay trợ cấp ốm đau như NLĐ làm việc trong nước. Mà lao động VN khi làm việc ở nước ngoài đa phần sẽ phải quay về nước nếu sinh con hoặc ốm đau dài ngày. Hay khi NLĐ tham gia chế độ TNLĐ-BNN ở Nhật Bản thì đương nhiên họ sẽ nhận được trợ cấp BNN những BNN có tính chất lâu dài và rất khó để phát hiện ngay, có những trường hợp NLĐ quay trở lại Việt Nam thì mới phát hiện ra bị BNN mà khi đó thì NLĐ sẽ rất thiệt thòi vì không tham gia BHXH ở Việt Nam mà chế độ TNLĐ-BNN đã tham gia ở bên Nhật Bản cũng không được hưởng vì pháp luật quốc gia chỉ áp dụng trên lãnh thổ quốc gia. Trợ cấp BNN là được hưởng theo định kỳ hàng tháng, vậy khi NLĐ