Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng - Thực trạng và giải pháp - 7

qua, những yêu cầu này chưa đạt được, hợp đồng cung ứng lao động của các doanh nghiệp ký với bên tiếp nhận lao động trong rất nhiều trường hợp còn chưa cụ thể, rõ ràng và chưa bảo vệ được quyền lợi của người lao động một cách thỏa đáng, từ đó kéo theo hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và hợp đồng lao động cũng chưa bảo vệ được người lao động một cách hợp lý, bản thân người lao động với nhận thức hạn chế khó có thể phát hiện và tự bảo vệ mình trong những trường hợp này. Hơn nữa, nhiều trường hợp việc dịch hợp đồng từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt không chính xác càng làm cho việc bảo vệ người lao động gặp nhiều khó khăn hơn.

Không chỉ theo đúng một trong bốn hình thức hợp đồng pháp luật quy định mà việc đi ra nước ngoài làm việc của người lao động chỉ có thể được thực hiện thông qua các cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép.

Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng hạn chế số lượng các tổ chức, cá nhân được phép tham gia vào quá trình tuyển dụng, tuyển chọn và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, theo đó chỉ có doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay nghề; tổ chức sự nghiệp của nhà nước đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài mới được thực hiện các hoạt động trên.

Để bảo đảm hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là hợp pháp, từ đó bảo vệ được người lao động ngay trước khi họ xuất cảnh nhà nước đã quy định chặt chẽ các điều kiện của các cá nhân, tổ chức được phép thực hiện việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Theo đó các cá nhân, tổ chức muốn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải có đủ

vốn pháp định (5 tỷ), Giấy phép dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (đối với doanh nghiệp dịch vụ), phải được sự cho phép của cơ quan chủ quản là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho phép, phải tiến hành đăng ký các hợp đồng liên quan đến người lao động đi làm việc ở nước ngoài và báo cáo phương án thực hiện hợp đồng với Cục quản lý lao động ngoài nước để cơ quan này thẩm định và chấp phép.

Những bảo đảm trên là phù hợp với mục đích của Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ, hướng hoạt động di trú vì việc làm của công dân nước mình theo con đường hợp pháp nhằm mục đích bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài được tốt hơn, hạn chế bớt những rủi ro do việc di cư bất hợp pháp gây ra.

- Đảm bảo người lao động được đào tạo ngoại ngữ, tay nghề, kiến thức cần thiết trước khi đi làm việc ở nước ngoài

Đây là một nội dung bảo vệ được Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đầu tư chú trọng, dành hẳn một chương để quy định. Mục đích dạy nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động là nhằm tạo nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài có trình độ kỹ năng nghề, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật và kiến thức cần thiết khác phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động (Điều 61 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng). Đây vừa là quyền vừa là trách nhiệm của người lao động, trách nhiệm của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài.

Hiện nay nhà nước có chính sách đầu tư cho các cơ sở dạy nghề tạo nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài; hình thành một số trường dạy nghề đủ điều kiện về trang bị, thiết bị, chương trình, giáo trình và đội ngũ giáo viên để đào tạo người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.

Nội dung đào tạo, bổ túc nghề nghiệp và ngoại ngữ cho người lao động phụ thuộc vào yêu cầu khách quan của công việc mà người lao động sẽ thực hiện và yêu cầu trực tiếp của bên tiếp nhận lao động. Nội dung bồi dưỡng kiến thức cần thiết bao gồm: Truyền thống, bản sắc văn hoá của dân tộc; Những nội dung cơ bản liên quan về pháp luật lao động, hình sự, dân sự, hành chính của Việt Nam và của nước tiếp nhận người lao động; Nội dung hợp đồng ký giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài với người lao động; Kỷ luật lao động, an toàn và vệ sinh lao động; Phong tục tập quán, văn hoá của nước tiếp nhận người lao động; Cách thức ứng xử trong lao động và đời sống; Sử dụng các phương tiện giao thông đi lại, mua bán, sử dụng các dụng cụ, thiết bị phục vụ sinh hoạt đời sống hằng ngày; Những vấn đề cần chủ động phòng ngừa trong thời gian sống và làm việc ở nước ngoài. Doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài có trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng kiến thức cần thiết, kiểm tra và cấp chứng chỉ cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài (Điều 65 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Tuy được đánh giá là một nội dung bảo vệ quan trọng như vậy song việc thực hiện nội dung này trên thực tế chưa đạt hiệu quả. Hoạt động đào tạo lao động trước khi xuất cảnh chưa được đảm bảo về chất, trình độ ngoại ngữ thấp kém, tay nghề yếu, hiểu biết về phong tục tập quán và pháp luật quốc gia nơi sẽ đến làm việc của lao động còn mơ hồ. Hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: nhiều lao động tham gia các lớp đào tạo chỉ mang tính hình thức, đối phó, bản thân người lao động chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc đào tạo nghề, học ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết, họ chỉ mong sao xuất cảnh càng nhanh càng tốt, các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho người lao động luôn chú trọng lợi nhuận

nhiều hơn là chất lượng lao động, các khóa học được mở ra chủ yếu mang tính thủ tục, hoặc nếu không có cơ sở đào tạo, họ lại liên kết hoặc gửi lao động sang các đơn vị khác đào tạo hộ. Trong công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, các cơ quan chức năng hầu như cũng lãng quên hay phớt lờ đi hoạt động đào tạo, giáo dục định hướng người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Đây là nguyên nhân khiến người lao động Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn khi đi làm việc ở nước ngoài và dễ trở thành nạn nhân của những kẻ lừa đảo, buôn người.

Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng - Thực trạng và giải pháp - 7

- Hỗ trợ tài chính cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài

Hỗ trợ tài chính cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài là nội dung pháp luật Việt Nam không thể bỏ qua nhằm giúp đỡ, khuyến khích người lao động Việt Nam vừa đang không có việc làm lại khó khăn về mặt tài chính đi làm việc ở nước ngoài để kiếm tiền, cải thiện thu nhập.

Theo đó, người lao động khi đi lao động ở nước ngoài sẽ được vay vốn của tổ chức tín dụng để trang trải các chi phí trước khi xuất cảnh. Riêng đối với người lao động thuộc diện chính sách (người lao động là người dân tộc thiểu số; người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; thân nhân của người có công với cách mạng có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng), người lao động thuộc các huyện nghèo được vay vốn tại Ngân hàng Chính sách Xã hội và hưởng chính sách tín dụng ưu đãi riêng. Mức cho vay đối với một lần vay phù hợp với từng loại đối tượng được

vay vốn tín dụng ưu đãi do Ngân hàng Chính sách xã hội quyết định và công

bố trên cơ sở nhu cầu vay vốn và khả năng nguồn vốn có thể huy động đượctrong từng thời kỳ, lãi suất cho vay ưu đãi do Thủ tướng Chính phủ quyết định

cho từng thời kỳ, lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay( Điều 16, Điều 18 Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4 tháng 10 năm 2002 về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác).

Mức cho vay đối với người lao động thuộc hộ cận nghèo do Ngân hàng Chính sách xã hội và hộ cận nghèo thỏa thuận nhưng không vượt quá mức cho vay tối đa phục vụ sản xuất kinh doanh áp dụng đối với hộ nghèo trong từng thời kỳ, lãi suất cho vay bằng 130% lãi suất cho vay đối với hộ nghèo quy định trong từng thời kỳ, lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay (Điều 2 Quyết định số 15/2013/ QĐ-TTg ngày 23 tháng 2 năm 2013 về tín dụng đối với hộ cận nghèo).

Đối với người lao động thuộc huyện nghèo thì:

+ Người lao động thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số được vay với lãi suất bằng 50% lãi suất cho vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách Xã hội áp dụng cho đối tượng chính sách đi xuất khẩu lao động (Điểm 1.1, Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2014/TTLT-BKHDT-BTC ngày 12 tháng 2 năm 2014 hướng dẫn lồng ghép nguồn vốn thực hiện Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn huyện nghèo).

+ Các đối tượng còn lại của các huyện nghèo được vay với lãi suất cho vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách Xã hội áp dụng cho đối tượng chính sách đi xuất khẩu lao động.

Riêng đối với thị trường Hàn Quốc pháp luật quy định người lao động đi làm việc tại Hàn Quốc thuộc đối tượng được vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội có nhu cầu vay vốn được vay tối đa 100 (một trăm) triệu đồng để ký quỹ, không phải thế chấp tài sản. [7]

Các đối tượng còn lại có quyền vay vốn tại các ngân hàng để đi làm việc ở nước ngoài với điều kiện, mức cho vay, lãi suất vay,... theo quy chế cho vay riêng của từng ngân hàng. Tuy nhiên trên thực tế nhiều ngân hàng không mặn mà với dịch vụ cho vay đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài vì lo sợ hệ số rủi ro cao, khả năng người lao động không hoàn trả được nợ, nhiều ngân hàng đang còn gặp khó khăn vì nợ xấu của hoạt động xuất khẩu

lao động những năm trước tồn đọng lớn. Để người lao động thực hiện được quyền vay vốn và mở cơ hội cho nhiều hộ gia đình thoát nghèo bằng việc đi làm việc ở nước ngoài, ngày 15/11/2002 Cục Quản lý lao động ngoài nước đã ký kết văn bản thỏa thuận với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam hợp tác hỗ trợ người lao động vay vốn đi làm việc ở nước ngoài, người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thể vay đến 80% tổng chi phí hợp pháp cần thiết mà không cần hợp đồng làm việc của bên tuyển dụng mà chỉ cần xác nhận là đã được tuyển đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài (Khoản 2, Điều 3, Khoản 2 Điều 4 Công văn số 8394/ NHNo-TDHo ngày 17 tháng 11 năm 2011 Hướng dẫn cho vay vốn với người lao động đi làm việc ở nước ngoài). Hiện nay ngân hàng Vietinbank cũng đã hoàn thiện quy chế cho vay đối với Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài với mức vay lên đến 70% tổng chi phí hợp pháp cần thiết.

Tuy thế những hạn chế trong vấn đề hỗ trợ người lao động vay vốn đi làm việc ở nước ngoài cũng đang tồn tại nhiều bất cập, hiện tượng ngân hàng đòi hỏi người lao động phải thế chấp tài sản, doanh nghiệp phải đặt cọc khi làm thủ tục vay vốn cho lao động đi làm việc ở nước ngoài vẫn còn khá phổ biến và để đáp ứng yêu cầu đó, không ít doanh nghiệp đã “đòi hỏi” người lao động phải đặt cọc một khoản tiền trước khi xuất cảnh và chung quy lại mọi khó khăn, thiệt thòi đều đổ dồn lên người lao động.

- Trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có liên quan trong việc bảo vệ người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài

Đây là một nội dung vô cùng quan trọng và không thể thiếu trong việc bảo vệ người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài, ngay từ khi người lao động bắt đầu tham gia chương trình đi làm việc ở nước ngoài, các cá nhân tổ chức có liên quan đã phải thực hiện nhiều công việc nhằm bảo vệ họ một cách thỏa đáng. Hiện pháp luật quy định khá toàn diện trách nhiệm bảo vệ

người lao động trước khi ra nước ngoài làm việc của cả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cả các tổ chức, cá nhân được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể như sau:

- Trách nhiệm của Nhà nước:

Nhà nước đã phân công trách nhiệm bảo vệ người lao động trong giai đoạn trước khi đi làm việc ở nước ngoài cho từng bộ, nghành, từng cơ quan có chức năng ở trong và ngoài nước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Theo đó:

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về người lao động đi làm việc ở nước ngoài (Khoản 1 Điều 70 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng).

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Xây dựng chiến lược, kế hoạch về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và chỉ đạo thực hiện; Phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, cơ chế về người lao động đi làm việc ở nước ngoài trình các cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền; chỉ đạo việc tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các văn bản hướng dẫn liên quan; Phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu phát triển thị trường lao động ngoài nước; Đàm phán, đề nghị cấp có thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế về lao động theo quy định của pháp luật về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; ký kết các thoả thuận quốc tế về lao động theo quy định của pháp luật về ký kết và thực hiện thoả thuận quốc tế; Xây dựng và hướng dẫn thực hiện kế hoạch đào tạo nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài; quy định nội dung, chương trình và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài; tổ chức bồi dưỡng cán bộ

thực hiện nhiệm vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cán bộ quản lý lao động ở nước ngoài; Quy định về Giấy phép; quyết định việc cấp, đổi, thu hồi Giấy phép; Tổ chức, hướng dẫn việc đăng ký hợp đồng của doanh nghiệp và người lao động đi làm việc ở nước theo hợp đồng cá nhân; giám sát việc thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp (Điều 8 Nghị định 126/2007/NĐ- CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng).

Cục Quản lý lao động ngoài nước là đơn vị thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theo quy định của pháp luật.

Bộ Công an cấp hộ chiếu cho người lao động theo quy định của pháp luật; Chỉ đạo lực lượng công an các cấp nắm tình hình các tổ chức, cá nhân hoạt động liên quan đến lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài nhằm phòng ngừa, phát hiện và kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật (Điều 10 Nghị định 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007).

Bộ Y tế quy định điều kiện để các cơ sở y tế được khám và chứng nhận sức khoẻ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài; phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định thống nhất mức phí kiểm tra sức khỏe cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài quy định điều kiện, tiêu chuẩn sức khoẻ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phù hợp với từng thị trường lao động; Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội định kỳ tổ chức tổng hợp và đánh giá tình hình sức khỏe của người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài; Chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm của các cơ sở y tế trong việc tổ

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 19/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí