Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng - Thực trạng và giải pháp - 6

nghiệp có trách nhiệm yêu cầu bên môi giới hoàn trả lại cho người lao động một phần tiền môi giới người lao động đã nộp theo nguyên tắc: người lao động làm việc chưa đủ 50% thời gian theo hợp đồng thì được nhận lại 50% tiền môi giới đã nộp, Người lao động đã làm việc từ 50% thời gian theo hợp đồng trở lên thì không được nhận lại tiền môi giới. Trường hợp không thể đòi được của bên môi giới thì doanh nghiệp có trách nhiệm hoàn trả cho người lao động theo nguyên tắc trên và được hạch toán vào chi phí hợp lý khi tính thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (Mục II Thông tư liên tịch 16/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 4 tháng 9 năm 2007 quy định cụ thể về tiên môi giới và tiền dịch vụ trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng).

Tiền dịch vụ là khoản chi phí mà người lao động phải trả cho doanh nghiệp dịch vụ khi đi làm việc ở nước ngoài (Điều 21 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng), tiền dịch vụ không áp dụng đối với trường hợp người lao động đã hoàn thành hợp đồng ký với doanh nghiệp (kể cả thời gian gia hạn theo hợp đồng) và được chủ sử dụng lao động gia hạn hoặc ký hợp đồng lao động mới. Mức trần tiền dịch vụ là không quá một tháng tiền tương (hoặc tiền trợ cấp tu nghiệp) theo hợp đồng cho một năm làm việc; riêng đối với sỹ quan và thuyền viên làm việc trên tàu vận tải biển không quá một tháng rưỡi tiền lương theo hợp đồng cho một năm làm việc, tổng mức tiền dịch vụ tối đa không quá 03 tháng lương theo hợp đồng/người/hợp đồng), Doanh nghiệp thoả thuận với người lao động để thu tiền dịch vụ một lần trước khi người lao động xuất cảnh hoặc thu nhiều lần trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trường hợp người lao động phải về nước trước thời hạn vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do lỗi của người lao động thì doanh nghiệp chỉ được thu tiền dịch vụ theo thời gian (số tháng) thực tế người lao động làm việc ở nước ngoài (Mục III Thông tư liên tịch

16/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 4 tháng 9 năm 2007 quy định cụ thể về tiên môi giới và tiền dịch vụ trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng).

Tiền ký quỹ của người lao động do người lao động thỏa thuận với doanh nghiệp dịch vụ để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (Điều 23 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng). Tiền ký quỹ chỉ được thực hiện khi hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được ký kết và người lao động đã được bên nước ngoài chấp nhận làm việc hoặc cấp visa. Pháp luật quy định cụ thể về cách thức nộp tiền ký quỹ của người lao động và ngân hàng, việc quản lý tiền ký quỹ, sử dụng tiền ký quỹ, việc hoàn trả tiền ký quỹ cho người lao động... Căn cứ vào tình hình thực tế tại các thị trường mà Việt Nam cung ứng lao động hiện nay thì khả năng người lao động vi phạm hợp đồng có thể xảy ra ở mọi thị trường lao động vậy nên pháp luật cho phép các doanh nghiệp thỏa thuận với người lao động ký quỹ ở tất cả các thị trường. Tuy nhiên để bảo vệ người lao động trước những yêu cầu, đòi hỏi khoản tiền ký quỹ quá cao, pháp luật cũng quy định mức trần tiền ký quỹ và thị trường lao động mà Doanh nghiệp dịch vụ được thỏa thuận ký quỹ với người lao động ở một số thị trường lao động Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia,...

Các khoản phí visa và phí vé máy bay sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn quốc gia đến làm việc, mỗi quốc gia khác nhau thì phí visa và phí vé máy bay khác nhau.

Tuy nhiên đa phần người lao động hiện này còn hiểu biết rất mơ hồ và chung chung các quy định về liên quan đến nghĩa vụ tài chính dẫn đến hậu quả bị các doanh nghiệp dịch vụ cao hơn so với mức luật định. Bản thân người lao động vì mục tiêu muốn đi làm việc ở nước ngoài có thể không biết hoặc biết nhưng sẵn sàng “hy sinh” lợi ích trước mắt một cách không chính

đáng. Thị trường Đài Loan và một ví dụ, Đài Loan được đánh giá là thị trường truyền thống rất phù hợp với lao động phổ thông Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường này đang do các đại lý môi giới Đài Loan thực hiện nên họ quyết định từ A-Z trong việc đưa lao động qua Đài Loan làm việc, các công ty môi giới Đài Loan đã tự đặt ra mức thu phí cao ngất ngưởng, và muốn xâm nhập vào thị trường các doanh nghiệp dịch vụ buộc phải chấp nhận, tổng chi phí xuất cảnh của lao động lên tới 6000 - 7000 USD và người lao động phải chạy vạy đủ đường để có tiền đi làm việc Đài Loan, đây cũng chính là nguyên nhân đẩy nhiều lao động đến lựa chọn trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp khi gần hết hợp đồng để bù lại chi phí. Để chấn chỉnh thị trường này, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo từ ngày 01/02/2014 trở đi các doanh nghiệp xuất khẩu lao động qua Đài Loan chỉ được phép thu mức phí không quá 4.000 USD/người lao động đối với các nghành nghề công xưởng, và 3.300 USD/ người lao động đi làm việc với ngành nghề dịch vụ chăm sóc sức khỏe, thỏa thuận tiền ký quỹ không được quá 1000 USD [18]. Hầu hết lao động có nhu cầu sang làm việc tại Đài Loan đều đã biết và hiểu rõ thông tin này song trên thực tế họ vẫn phải chấp nhận bị thu phí “bên ngoài” với vô vàn lý do mà doanh nghiệp đưa ra.

Lao động Việt Nam muốn đi làm việc ở nước ngoài thì phải biết và hiểu chính sách, pháp luật có liên quan và phong tục, tập quán của nước tiếp nhận người lao động, các thông tin này chủ yếu được phổ biến và cung cấp trong quá trình người lao động tham gia các khóa học giáo dục định hướng và bồi dưỡng kiến thức cần thiết. Có đảm bảo được những thông tin này thì người lao động mới có thể mạnh dạn hòa nhập cuộc sống ở quốc gia khác được.

Ngoài ra việc đảm bảo cho người lao động nắm bắt được những diễn biến, tình hình đang xảy ra hoặc có thể xảy ra ở nước ngoài cũng là điều vô cùng quan trọng, nếu thuận lợi (chính trị ổn định, nhiều việc làm, thu nhập

cao,...) thì có thể khuyến khích, động viên người lao động đi làm việc nước ngoài, nếu diễn biến tình hình phức tạp, bất lợi cho người lao động (diễn biến chính trị bất ổn, chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, tệ nạn xã hội...) thì phải cảnh báo, khuyến cáo người lao động không nên đi làm việc tại những quốc gia đó. Để truyền đạt các thông tin đó tới người lao động một cách đầy đủ và chính xác đòi hỏi các chủ thể có trách nhiệm cũng phải là người biết và hiểu rõ các thông tin, thực tế cho thấy có rất nhiều thông tin vượt ra ngoài tầm hiểu biết của các doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài và cần đến sự giúp đỡ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thế nhưng quy định pháp luật mới chỉ nhấn mạnh trách nhiệm cung cấp thông tin của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài. Mới đây Luật Việc làm năm 2013 đã quy định Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân có trách nhiệm cung cấp chính xác và kịp thời thông tin thị trường lao động theo quy định của pháp luật; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan thu thập và công bố các thông tin thị trường lao động thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách ngoài các thông tin thị trường lao động thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia; ban hành quy chế quản lý, khai thác, sử dụng và phổ biến thông tin thị trường lao động; xây dựng mạng thông tin và cơ sở dữ liệu thị trường lao động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì việc phân tích, dự báo và phổ biến thông tin thị trường lao động thuộc thẩm quyền (Điều 24, 25, 26 27 Luật Việt làm 2013).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Đánh giá việc thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời gian qua cho thấy còn rất chậm chạp, nhiều vụ việc khi các cá nhân, doanh nghiệp đã đưa “trót lọt” lao động ra nước ngoài và xảy ra những hậu quả nghiêm trọng thì cơ quan nhà nước mới biết và lên tiếng cảnh báo. Angola là một ví dụ điển hình. Với lời hứa hẹn thu nhập nghìn đô la của

những kẻ lừa đảo xuất khẩu lao động, hàng nghìn người lao động Việt Nam đã lên đường sang Angola làm việc trong sự không kiểm soát được của cơ quan chính quyền địa phương, các bộ, ngành chức năng, tuy nhiên khi sang đến Angola, người lao động vỡ mộng khi phải đối diện với tình trạng không có việc làm, tình hình chính trị bất ổn, tệ nạn xã hội, dịch bệnh, đói khát và không ít người lao động Việt Nam đã tử vong vì sốt rét và tệ nạn cướp bóc. Khi nhận được thông tin đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã khẩn trương cảnh báo trên mọi phương tiện thông tin đại chúng và tìm cách ngăn chặn luồng di cư lao động trái phép sang Angola vẫn đang diễn ra trên nhiều tỉnh thành (đặc biệt là các tỉnh miền trung: Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình...) [12]. Tuy nhiên, do nắm bắt tình hình khá muộn và các biện pháp ngăn chặn, trừng trị những kẻ lừa đảo chưa thực sự nghiêm khắc nên việc bảo vệ người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài gần như không đạt hiệu quả mấy, nhiều lao động Việt Nam vẫn bị những kẻ lừa đảo đưa sang Angola làm việc và phải đối mặt với nhiều khó khăn chồng chất.

Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng - Thực trạng và giải pháp - 6

- Đảm bảo việc ra nước ngoài làm việc của người lao động là hợp pháp và theo hình thức hợp đồng.

Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hợp pháp là nhiệm vụ và cũng là mục tiêu của nhà nước. Tính hợp pháp ở đây được thể hiện ở chỗ: không thực hiện các hành vi cấm, ngành nghề bị cấm đi làm việc ở nước ngoài, đi làm việc ở nước ngoài theo đúng hình thức hợp đồng với các cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Trong 11 nhóm hành vi bị nghiêm cấm thì có 7 nhóm hành vi thể hiện rõ quan điểm và mục tiêu bảo vệ người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài: (1) Cấp Giấy phép Giấy phép cho doanh nghiệp không đủ điều kiện,

(2) Giao nhiệm vụ điều hành hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở

nước ngoài cho người đã quản lý doanh nghiệp bị thu hồi Giấy phép hoặc người đang trong thời gian bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên do vi phạm quy định của pháp luật về người lao động đi làm việc ở nước ngoài. (3) Đi làm việc hoặc đưa người lao động đi làm việc ở khu vực, ngành, nghề và công việc bị cấm theo quy định của Chính phủ hoặc không được nước tiếp nhận người lao động cho phép, (4) Lợi dụng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để tổ chức đưa công dân Việt Nam ra nước ngoài, (5) Lợi dụng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để tổ chức tuyển chọn, đào tạo, thu tiền của người lao động, (6) Tổ chức đưa người lao động ra nước ngoài làm việc khi chưa đăng ký hợp đồng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, (7) Gây phiền hà, cản trở, sách nhiễu người lao động hoặc doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Chính phủ cũng quy định danh mục 8 nhóm ngành nghề bị cấm đi làm việc ở nước ngoài: Nghề vũ công, ca sĩ, massage làm việc tại các nhà hàng, khách sạn hoặc các trung tâm giải trí; Công việc phải tiếp xúc thường xuyên với chất nổ, chất độc hại trong luyện quặng kim loại màu (đồng, chì, thủy ngân, bạc, kẽm), tiếp xúc thường xuyên với mangan, điôxit thủy ngân; Công việc tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở, khai thác quặng phóng xạ các loại; Công việc sản xuất, bao gói phải tiếp xúc thường xuyên với các hóa chất axit nitơric, natri sunfat, disunfua cacbon, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ, diệt chuột, sát trùng, chống mối mọt có độc tính mạnh; Công việc săn bắt thú dữ, cá sấu, cá mập; Công việc thường xuyên ở nơi thiếu không khí, áp suất lớn (dưới lòng đất, lòng đại dương); Công việc liệm, mai táng tử thi, thiêu xác chết, bốc mồ mả; Công việc mà nước tiếp nhận lao động và Việt Nam cấm.

[15] Không nên cho rằng quy định về các ngành nghề bị cấm đi làm việc ở nước ngoài là hạn chế quyền làm việc của người lao động mà ngược lại chính

những quy định này có tác dụng tích cực trong việc bảo vệ an ninh cho người lao vì những ngành nghề đó rất dễ gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc tổn thương hại về danh dự, nhân phẩm của người lao động.

Pháp luật quy định bất kể một công dân Việt Nam nào muốn ra nước ngoài làm việc cũng phải theo hình thức hợp đồng. Pháp luật quy định chặt chẽ nội dung, hình thức của các hợp đồng liên quan đến người lao đông đi làm việc ở nước ngoài. Nếu không theo hình thức hợp đồng có nghĩa là họ là người lao động bất hợp pháp. Trước khi người lao động được các cá nhân, tổ chức đưa ra nước ngoài làm việc thì các hợp đồng đó phải được cơ quan có thẩm quyền Việt Nam thẩm định và chấp phép.

Trước khi ký Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với người lao động, doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp phải ký Hợp đồng cung ứng lao động, Hợp đồng nhận lao động thực tập với đối tác nước ngoài hay Hợp đồng trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án ở nước ngoài. Trong Hợp đồng cung ứng lao động, Hợp đồng nhận lao động thực tập phải thể hiện các nội dung quan trọng về quyền lợi của người lao động. Hợp đồng là căn cứ đầu tiên để giải quyết các quyền lợi của người lao động. Các hợp đồng liên quan đến việc đưa người lao đồng đi làm việc ở nước ngoài phải đúng mẫu và nội dung Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định tại Thông tư số 22/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/10/2013 quy định mẫu và nội dung của Hợp

đồng cung ứng lao động và Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước

ngoài, hoặc quy định riêng của một số quốc gia tiếp nhận lao động như Đài Loan, Nhật Bản.

Các hợp đồng liên quan đến người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải được đăng ký, báo cáo với Cục quản lý lao động ngoài nước trước khi triển khai thực hiện. Thông qua hoạt động này Bộ Lao động - Thương binh và xã hội có thể kiểm soát được hoạt động đưa người lao động ra

nước ngoài làm việc của các chủ thể để có biện pháp can thiệp kịp thời trước khi người lao động lên đường ra nước ngoài làm việc.

Về thời gian ký Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, pháp luật đã quy định doanh nghiệp dịch vụ phải thực hiện việc ký hợp đồng với người lao động ít nhất 05 ngày trước khi người lao động xuất cảnh, doanh nghiệp dịch vụ chỉ được thu tiền dịch vụ và tiền môi giới của người lao động sau khi ký Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với người lao động và người lao động được phía nước ngoài chấp nhận vào làm việc hoặc cấp thị thực nhập cảnh (visa) (Điểm 2 mục V Thông tư 21/2007 TT- BLĐTBXH ngày 8 tháng 10 năm 2007 hướng dẫn Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định 126/2007/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng). Quy định là như vậy song thực tế các doanh nghiệp dịch vụ đều làm ngược lại, hầu hết người lao động khi nhận được thông báo trúng tuyển đều được gọi đến để đóng các khoản tiền, tổng cộng các chi phí người lao động phải đóng thường cao hơn nhiều so với các khoản mục được thể hiện trong hợp đồng, trước một, hai ngày bay thậm chí là vài giờ trước khi bay các doanh nghiệp mới đưa hợp đồng cho người lao động ký, và với tâm lý đã trúng tuyển, có lịch bay rõ ràng nên rất tin tưởng các doanh nghiệp, ít người lao động đọc kỹ các nội dung của hợp đồng.

Bảo đảm việc ra nước ngoài làm việc đúng hình thức hợp đồng có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ người lao động. Mức độ bảo đảm các quyền và lợi ích của người lao động khi đi làm việc ở nước ngoài trước hết và phần lớn phụ thuộc vào hợp đồng mà họ đã ký trước đó với doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, thế nên các bản hợp đồng phải chứa đựng những điều khoản có lợi cho người lao động về nội dung và chặt chẽ về kỹ thuật lập hợp đồng. Tuy nhiên, theo đánh giá chung công tác xuất khẩu lao động trong những năm

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/12/2022