Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - 6

hiện các nghiệp vụ khác như lưu ký, môi giới, tư vấn. Ngược lại, các công ty chứng khoán, bảo hiểm và các tổ chức phi ngân hàng cũng không được tham gia các hoạt động ngân hàng truyền thống. Mục đích là ngăn ngừa rủi ro và giữ mức cạnh tranh vừa phải cho hệ thống ngân hàng. ở Việt Nam, các ngân hàng đã dược tách biệt với các công ty chứng khoán, nhưng cần phải xem xét đến tính độc lập của các công ty chứng khoán nguyên là các công ty con cuả các ngân hàng.


Duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, thích hợp. Sự cạnh tranh buộc các TCTD hoạt động có hiệu quả hơn và phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuy nhiên, sự cạnh tranh quá mức sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ và làm tăng sự liều lĩnh của các TCTD. Khi mức lợi nhuận bị giảm mạnh do cạnh tranh khốc liệt sẽ dễ hướng các TCTD lao vào các hoạt động có rủi ro cao. Do vậy, cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh bằng cách duy trì số lượng thích hợp của các TCTD, kiểm soát việc cho ra đời các TCTD mới cũng như việc mở thêm chi nhánh, văn phòng giao dịch.

Công khai thông tin và hoạt động của các TCTD. Ngân hàng nhà nước cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các TCTD bắt buộc phải công khai cho công chúng (ít nhất là cho khách hàng và cổ đông) biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, trước mắt là các số liệu về các chỉ tiêu bắt buộc theo quy định của ngân hàng nhà nước. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho bản thân TCTD và cho xã hội. Đối với cổ đông, người gửi tiền, khách hàng có được nhiều thônh tin chính xác về chất lượng và hoạt động của TCTD sẽ giúp cho họ có được quyết định đúng đắn trong việc đầu tư, giao dịch với ngân hàng. Đây là cách tốt nhất để bảo vệ quyền lợi cho công chúng (thường không có đủ và rất khó để có được thông tin chính xác về các TCTD). Đồng thời phản ứng của khách hàng, chủ nợ trước các thông tin này sẽ buộc tài chính tín dụng định hướng hoạt động của mình. Đối với các TCTD, việc công khai chất lượng và hoạt động của mình sẽ làm giảm bớt sự liều lĩnh, bất hợp pháp (nếu có) trong tổ chức mình. Đối với cơ quản lý và pháp luật sẽ giảm được khối lượng công việc giám sát, theo dõi do được chia sẻ với công chúng đồng thời phát hiện nhanh và ngăn chặn kịp thời các hành vi nguy cơ. Hiện nay, thực hiện

công tác này vẫn còn khá yếu kém ở Việt Nam và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các vụ đổ bể kinh tế lớn và thua lỗ nặng của một vài ngân hàng.


Xây dựng phí bảo hiểm và tỷ lệ bồi thường tương ứng với mức độ rủi ro. Để giảm thiểu tình trạng sự liều lĩnh sau bảo hiểm và buộc người bảo hiểm pjải tiếp tục quan tâm đến hoạt động của các TCTD, một số nước đã bãi bỏ việc bồi hoàn 100%. Nghĩa là bất kỳ gửi nhiều hay ít, người gưit tiền vẫn phải gánh chịu một tỷ lệ nhất định thua lỗ trong trường hợp TCTD mất khả năng thanh toán. Tỷ lệ bồi hoàn còn gắn với mức độ rủi ro (chất lượng hoạt động) của TCTD. Ngoài ra, phí bảo hiểm không giàn đều mà tuỳ vào mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng theo hướng phí bảo hiểm thấp khi rủi ro thấp và ngược lại. Như vậy, một TCTD có nhiều hoạt động rủi ro sẽ phải gánh chịu phí bảo hiểm cao và tỷ lệ bồi hoàn thấp. Đây cũng là hình thức thưởng phạt và khuyến khích các TCTD hoạt động thận trọng, lành mạnh. Đồng thời, căn cứ vào mức phí và tỷ lệ bồi hoàn, công chúng sẽ có ý thức hơn và thận trọng hơn trong việc giao dịch với các TCTD.


Ngoài những vấn đề cần quan tâm trên, cần phải khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi để xây dụng phí bảo hiểm, tỷ lệ bồi thường thích hợp.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 65 trang tài liệu này.

Bên cạnh nhữnh giải pháp vi mô chúng ta không thể không kể đến giải pháp vĩ mô góp phần hoàn thiện BHTG ở Việt Nam.


Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - 6

b. Vĩ mô

Một là: Chúng ta cần sớm có luật về BHTG, có thể là một phần trong luật ngân hàng, hoặc cũng có thể ban hành đạo luật BHTG riêng.


Hai là: Chúng ta cần xây dựng hệ thống BHTG gồm những tổ chức BHTG lớn mạnh, độc lập, chuyên môn hoá có đủ sức BHTG cho các ngân hàng lớn ở nước ta. Trước tên chúng ta có thể xây dựng công ty BHTG nhà nước cho các ngân hàng thương mại. Công ty này thuộc sở hữu nhà nước, được cấp vốn ban đầu để hoạt động. VViệc thành lập công ty bảo hiểm tiền gửi nhà nước phù hợp với đặc điểm hiện nay của hệ thống ngân hàng nước ta nói riêng, của nên kinh tế Việt Nam nói chung. Vì đại bộ phận tiền gửi trong phạm vi cả nước là do các ngân hàng quốc doanh huy động, và doanh số hoạt động của các ngân hàng quốc doanh chiếm khoảng 90% toàn bộ doánhố hoạt động của cả hêj thống ngân hàng. Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và trong đó kinh tế quốc doanh chiếm vị trí chủ đạo. Trên thực tế ngân hàng quốc doanh đang chiếm vị trí chủ đạo trong ngành. Hệ thống BHTG phải đảm bảo được sự phát triển lành mạnh cho các ngân hàng quốc doanh vì sự nghiệp đó.


Ba là: Hệ thống BHTG có tác dụng quan trọng trong việc bảo đảm an toàn cho hệ thống các ngân hàng do đó góp phần ổn định và phát triển nên tài chính quốc gia. Với ý nghĩa đó, sự phát triển của hệ thống BHTG cần được nhà nước quan tâm đặc biệt. Điều đó có thể được thực hiện thông qua việc nhà nước cấp vốn và cử người điều hành các tổ chức vào BHTG nhà nước hoặc nhà nước tài trợ, hoặc cho các tổ chức bảo hiểm vay vốn khi gặp khó khăn, Hoặc nhà nước có chính sách ưu tiên về thuế đối với các tổ chức BHTG trông thời gian đầu mới thành lập v. v. . .


Bốn là: Cần tiếp tục phát triển hoạt động BHTG của Bảo Việt đối với quỹ tín dụng nhân dân. Bao gồm triển khai hoạt động bảo hiểm cho tất cả các quỹ tín dụng nhân dân trên mọi miền đất nước; Hoàn thiện quy chế bảo hiểm trên tất cả các phương tiện cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay.


Tóm lại, dù là giải pháp vi mô hay vĩ mô chúng ta cần phải tạo cho thị trường bảo hiểm tiền gửi những ưu thế hơn so với thị trường khác và có sân chơi lành mạnh cho chúng hoạt động.


cHƯƠNG III: MộT Số KIếN NGHị NHằM PHáT TRIểN thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.


I. NHữNG THUậN LợI KHI TRIểN KHAI bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam


Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm tiền gửi mặc dù mới triển khai ở Việt Nam nhưng nó cũng có một số thuận lợi sau:

Thứ nhất: nó được đông đảo người gửi tiền ủng hộ vì nó tạo ra sự an tâm cho những người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng và làm lá chắn cho họ khi xảy ra rủi ro tín dụng . Đặc biệt là những tổ chức tín dụng vừa mới được thành lập, vẫn còn non trẻ, chưa có uy tín trên thị trường thì nhu cầu tham gia bảo hiểm tiền gửi càng cao.


Thứ hai: như chúng ta đã biết Việt Nam là một nước có hệ thống tổ chức tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân rộng khắp trên cả nước và số lượng tương đối lớn. Vì vậy bảo hiểm thị trường ra đời thu hút một lượng lớn các quỹ tín dụng nhân dân và các tín dụng tổ chức này tham gia. Đây là một thị trường có sức hút lớn có khả năng lôi kéo một số lượng khách hàng hiện tại cũng như tiềm năng khá lớn.


Thứ ba: khi đất nước phát triển càng mạnh thì nhu cầu bảo hiểm nói chung và nhu cầu bảo hiểm tiền gửi nói riêng ngày càng gia tăng, do họ thấy rõ được vai trò và tác dụng của bảo hiểm thị trường là bảo vệ người gửi tiền và bảo đảm cho các tổ chức tín dụng hoạt động có hiệu quả hơn.


Thứ tư: bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước khác trên thế giới, vì vậy chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của họ, tiếp thu những cái tinh hoa nhất và biết sàng lọc những điểm bất hợp lý.


Thứ năm: mặt khác bảo hiểm tiền gửi của ta là một tổ chức tín dụng của Nhà nước, hoạt động dưới sự điều tiết của thủ tướng chính phủ, được Nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, được miễn nộp thuế. Chính vì được sự ưu đãi lớn của chính phủ dành cho nên các tổ chức bảo hiểm tiền gửi có một lợi thế hơn hẳn so vơí các loậi hình bảo hiểm khác.

II. NHững khó khăn khi triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam


Bên cạnh những thuận lợi thì việc triển khai bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam cũng gặp phải những khó khăn:


Như chúng ta đã biết loại hình bảo hiểm tiền gửi ở nước ta còn rất mới mẻ và non trẻ nên đội ngũ cán bộ trong ngành bảo hiểm tiền gửi chưa có trình độ chuyên môn cao (chủ yếu là cán bộ chuyển từ ngành ngân hàng sang), số lượng người hiểu biết về nghiệp vụ này quá ít. Do đó khi triển khai nghiệp vụ này, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và lúng túng trong khâu quản lý và thực hiện. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng của ta chưa thấy hết được tác dụng của bảo hiểm tiền gửi, họ cho rằng việc tham gia bảo hiểm tiền gửi sẽ làm tăng chi phí trung gian (không tính chi phí đầu vào). Vì vậy hiện nay mặc dù số các tổ chức tín dụng trong cả nước khá lớn nhưng số lượng các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi là rất ít. Họ chỉ nghĩ tới lợi ích trước mắt mà không nghĩ tới lợi ích lâu dài. Do đó, chúng ta phải có biện pháp để khuyến khích họ tham gia nhiều hơn.


Thêm vào đó, bảo hiểm tiền gửi chưa hình thành một hệ thống luật riêng đồng bộ, mà nó mới chỉ được điều chỉnh bởi "luật tổ chức tín dụng ", nghị định 89 /1999/NĐ- CP về bảo hiểm tiền gửi và một số thông tư khác nhưng chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, và phạm vi quá hẹp, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên khi thực hiện vẫn còn tạo ra nhiều khe hở dẫn tới nhiều hiện tượng tiêu cực như:


-Sự liều lĩnh sau khi được bảo hiểm, đó là tình trạng người đóng bảo hiểm (trong trường hợp này là các tổ chức tín dụng) sẽ trở nên bất cẩnvà dễ dàng thực hiện hành vi có độ rủi ro cao vì nghĩ rằng, mọi rủi ro sẽ được cơ quan bảo hiểm gánh chịu và đền bù.


-Tiếp đến chúng ta phải kể đến là sự lựa chọn ngược, hiện tượng mà trong đó những người bất cẩn có nhiều hành vi rủi ro lại muốn tham gia bảo hiểm hơn so với người cẩn trọng. Từ đó sẽ thu hút các doanh nhân có máu mạo hiểm, liều lĩnh tham gia vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó dẫn đến tình trạng cào bằng giữa tổ chức tín dụng tốt, hiệu quả với tổ chức tín dụng yếu kém.


-Hiện nay còn xuất hiện hiện tượng lách luật, né tránh giới hạn bảo hiểm tối đa dưới hình thức người gửi tiền tự mình hoặc nhờ tổ chức tín dụng hoặc một bên thứ ba chia nhỏ số tiền đem gửi đi nhiều nơi sao cho mỗi phần tương ứng với mức tối đa được bảo hiểm. Hiện tượng này làm tăng gánh nặng tài chính cho bảo hiểm tiền gửi và liều lĩnh của người gửi tiền.


III. một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam


Ngày nay, hội nhập quốc tế đã và đang là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các nước nói chung và nước ta nói riêng. Trong những năm qua, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao, thương mại với nhiều nước trên thế giới đạc biệt là việc ra nhập tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC. . . Trong điều kiện đó, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tiền gửi nói riêng phải chuẩn bị mọi tiền đề đủ mạnh về tài chính, kỹ thuật, con người. . . nhằm góp phần phát triển kịp với thị trường bảo hiểm tiền gửi của thế giới.


Do ngành bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam mới thành lập, khả năng tài chính và kinh nghiệm còn hạn chế. Là một sinh viên với kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế em xin đưa ra một số kiến nghị sau:


Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần có tổ chức mạng lưới ở các địa phương. Trước mắt nên có ở từng khu vực và lâu dài nên có ở tất cả các tỉnh (đủ số lượng và mạnh về chất lượng) để có thể thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình (theo uỷ quyền) với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi ở các địa phương.


Ngân hàng nhà nước tỉnh cần chấm dứt vai trò làm thay những tác nghiệp cụ thể của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.


Nghị định 89 /1999 / NĐ- CP và thông tư 03 /2000/TTNH7 nên sửa đổi bổ sung một số nội dung cơ bản sau:


-Đối tượng thuộc diện điều chỉnh của NĐ này ngoài cá nhân còn có pháp nhân.


-Không chỉ bảo hiểm tiền gửi là đồng Việt Nam mà cả ngoại tệ.


-Mức phí bảo hiểm nên chăng có nhiều mức khác nhau áp dụng cho các loại hình tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.


-Mức được bảo hiểm trả cho đồng nội tệ và ngoại tệ của một cá nhân và pháp nhân của tất cả những loại tiền gửi có kỳ hạn sẽ được tính theo tỷ lệ phần trăm, số còn lại sẽ được bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tiếp tục hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản phù hợp với quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.

Xem tất cả 65 trang.

Ngày đăng: 02/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí