1.2 Hoạt động giám sát các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
1.2.1 Khái niệm về giám sát
Trong từ điển Tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định” hoặc được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”.
Thuật ngữ “giám sát ngân hàng” theo nghĩa rộng được hiểu là tất cả các hoạt động nhằm đảm bảo cho sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính có cung cấp dịch vụ ngân hàng, bao gồm: giám sát (off-site supervision), kiểm tra tại chỗ (on-site examination) và cưỡng chế thực thi các hành động chỉnh sửa kịp thời. Trong một số trường hợp, thuật ngữ này bao hàm cả các hoạt động như: thu thập, xử lý thông tin tín dụng, đánh giá và xếp hạng tổ chức tín dụng, bảo vệ người sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố…
Hoạt động giám sát ra đời từ giữa thập kỷ 70 tại Mỹ. Vào thời điểm đó, nhiều ngân hàng ở Mỹ lâm vào tình trạng khó khăn, vượt khỏi tầm kiểm soát của hệ thống kiểm tra tại chỗ vốn đã rất mạnh và được bố trí rộng khắp. Sở dĩ xảy ra hiện tượng này vì thời gian giữa hai kỳ kiểm tra tại chỗ có một khoảng trống khá dài, thường là 2 đến 3 năm nên không nắm bắt được những diễn biến liên tục của các tổ chức. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải có một phương thức bổ sung cho phương thức kiểm tra tại chỗ, nhằm kiểm soát thường xuyên ở tầm vĩ mô hoạt động của các TCTD. Một thời gian sau, tình trạng tương tự lại diễn ra tại Tây Ban Nha và nhiều nước khác trên thế giới. Sự ra đời của hoạt động giám sát xuất phát từ yêu cầu của việc kiểm soát thường xuyên, nhằm duy trì khả năng chi trả của ngân hàng, bảo vệ lòng tin của TCTD đối với người gửi tiền. Việc mất lòng tin ở một TCTD nào đó có thể dẫn đến những hậu quả tai hại khó lường, vì vậy lĩnh vực hoạt động ngân hàng nói riêng và hoạt động tài chính nói chung buộc phải có sự giám sát chặt chẽ và kịp thời. Đối tượng giám sát của tổ chức BHTG là các tổ chức tài chính có thực hiện hoạt động nhận tiền gửi của các chủ thể trong nền kinh tế
và tham gia BHTG. Chủ thể giám sát là các cơ quan có chức năng giám sát thuộc mạng an toàn tài chính quốc gia như Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, Ủy ban chứng khoán… Vì chi phí cho hoạt động BHTG khá lớn trong khi khoản thu phí bảo hiểm có hạn nên tổ chức BHTG phải do một tổ chính trị hoặc cơ quan nhà nước đứng ra thành lập và quản lý, có thể là Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng Trung ương, hiệp hội nghề nghiệp. Mặc dù vậy, chức năng giám sát của tổ chức BHTG không giống nhau tại tất cả các quốc gia. Thông thường, tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro được trao các chức năng giám sát đầy đủ.
Tóm lại, hoạt động giám sát của tổ chức BHTG là quá trình theo dõi, phân tích, đánh giá thực hiện quy định về BHTG, tình hình hoạt động và mức độ rủi ro của tổ chức tham gia BHTG dựa trên nguồn thông tin từ các tổ chức này và các nguồn thông tin khác, từ đó đưa ra các cảnh báo, đề xuất biện pháp chấn chỉnh, giúp cho tổ chức tham gia BHTG hoạt động đúng pháp luật, an toàn và hiệu quả.
Hoạt động giám sát tổ chức tham gia BHTG của tổ chức BHTG được tiến hành thường xuyên trên cơ sở các thông tin về khách hàng tham gia BHTG mà tổ chức BHTG có được. Nội dung của hoạt động giám sát là đánh giá hoạt động của tổ chức tham gia BHTG và từ đó đưa ra các khuyến nghị đối với hoạt động của các tổ chức đó với mục đích đảm bảo tuân thủ các quy định về BHTG và quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Giám sát các quỹ tín dụng nhân dân tham gia bảo hiểm tiền gửi của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội - 1
- Giám sát các quỹ tín dụng nhân dân tham gia bảo hiểm tiền gửi của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội - 2
- Công Tác Kiểm Tra, Kiểm Soát Hoạt Động Giám Sát
- Kinh Nghiệm Về Hoạt Động Giám Sát Tại Một Số Chi Nhánh Của Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam
- Bài Học Kinh Nghiệm Đối Với Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam – Chi Nhánh Hà Nội
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
Hoạt động giám sát của tổ chức BHTG còn là cơ sở để tiến hành hoạt động kiểm tra tại chỗ tổ chức tham gia BHTG. Việc tiến hành kiểm tra thường xuyên tất cả các tổ chức tham gia BHTG có thể sẽ là khó khăn cho cả tổ chức BHTG và tổ chức tham gia BHTG, vì vậy hoạt động giám sát cho phép tổ chức BHTG có thể tiến hành kiểm tra tại chỗ theo phương thức chọn mẫu, không nhất thiết phải kiểm tra đồng loạt các tổ chức tham gia BHTG.
1.2.2 Vai trò của giám sát các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động giám sát của tổ chức BHTG đối với các tổ chức tham gia BHTG xuất phát từ mục tiêu của tổ chức BHTG là nhằm đảm bảo sự ổn định và an toàn hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền. Với từng đối tượng cụ thể, hoạt động giám sát của tổ chức BHTG thể hiện vai trò khác nhau:
Đối với tổ chức BHTG, giám sát thể hiện trách nhiệm, quyền hạn giữa tổ chức BHTG với tổ chức tham gia BHTG. Hoạt động giám sát giúp tổ chức BHTG đánh giá kịp thời, toàn diện và có hệ thống thực trạng hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi để từ đó đưa ra những cảnh báo về rủi ro; kiến nghị tổ chức nhận tiền gửi chỉnh sửa các vi phạm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Khi tổ chức nhận tiền gửi hoạt động hiệu quả sẽ tiết giảm được chi phí của tổ chức BHTG như không phải hỗ trợ tài chính, không phải chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền. Mặt khác, khi chất lượng công tác giám sát nói chung và giám sát được nâng cao, tổ chức BTHG sẽ có cơ sở để chủ động hỗ trợ tài chính và thu phí BHTG theo mức độ rủi ro đối với tổ chức nhận tiền gửi. Có thể nói, hoạt động giám sát tổ chức tham gia BHTG là nhiệm vụ trọng yếu của tổ chức BHTG. Nó khẳng định vị thế của một tổ chức BHTG và là cơ sở để tiến hành mọi hoạt động khác.
Đối với tổ chức tham gia BHTG, hoạt động giám sát của tổ chức BHTG góp phần đảm bảo an toàn cho bản thân tổ chức tham gia BHTG và cho cả hệ thống tài chính ngân hàng. Thêm vào đó, sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng, sự bùng nổ về khoa học công nghệ cùng xu thế toàn cầu hóa tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ thống tài chính ngân hàng. Khi tổ chức tham gia BHTG có hạn chế trong việc kiểm soát rủi ro của mình thì vai trò giám sát của BHTG càng trở nên quan trọng. Trong hoạt động của mình, tổ chức tham gia BHTG với đội ngũ kiểm soát, kiểm toán nội bộ có hạn, việc vi phạm hay bỏ qua yêu cầu an toàn có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Do đó, chính kết quả giám sát của tổ chức BHTG giúp tổ chức tham gia BHTG nhìn
nhận ra các sai sót, tồn tại để từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục và chỉnh sửa để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Tình trạng chấp nhận rủi ro quá mức trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG sẽ được hạn chế nếu được cảnh báo sớm. Dưới tác động của hoạt động giám sát, tổ chức tham gia BHTG sẽ nâng cao trách nhiệm trong chấp hành các tỷ lệ an toàn, tự bổ sung, hoàn thiện để nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị nói chung và quản trị rủi ro nói riêng.
Đối với người gửi tiền, hoạt động giám sát mạng lại lợi ích qua việc tổ chức nhận tiền gửi hoạt động an toàn bởi thường xuyên được tổ chức BHTG giám sát và đưa ra cảnh báo sớm. Lợi ích còn được thể hiện qua việc người gửi tiền được cung cấp các thông tin cần thiết về tổ chức nhận tiền gửi và từ những thông tin đó để chọn nơi gửi tiền.
Đối với xã hội, hoạt động giám sát của tổ chức BHTG đối với các tổ chức tham gia BHTG sẽ giảm thiểu rủi ro khi tổ chức tham gia BHTG có hạn chế trong tầm kiểm soát rủi ro của mình. Chính hoạt động giám sát đã ngăn ngừa việc đổ vỡ ngân hàng theo tính dây chuyền và lây lan toàn hệ thống trong một quốc gia ra khu vực và quốc tế giúp ổn định chính trị xã hội và kinh tế, tạo điều kiện phát triển cho nền kinh tế và xã hội.
1.2.3 Nội dung giám sát các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
1.2.3.1 Chủ thể giám sát
Chủ thể giám sát là cơ quan chuyên làm nhiệm vụ giám sát hoặc có chức năng giám sát thuộc mạng an toàn tài chính quốc gia như Ngân hàng nhà nước trung ương hay Ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia và cả tổ chức BHTG.
Tổ chức BHTG với tư cách là một tổ chức bảo hiểm hoạt động theo nguyên lý của bảo hiểm. Tuy nhiên trong kinh tế hiện đại tổ chức BHTG không chỉ là một tổ chức bảo hiểm đơn thuần, làm nhiệm vụ thu phí các tổ chức tham gia BHTG và hơn nữa nó có vai trò giám sát hoạt động của các tổ
chức này, xếp hạng và cảnh báo nhằm góp phần bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính – ngân hàng quốc gia.
Hầu hết ở các nước tham gia giám sát và bảo đảm an toàn hệ thống tài chính quốc gia chủ yếu bao gồm 05 cơ quan là Bộ Tài chính; Ngân hàng nhà nước; Cơ quan quản lý, giám sát thị trường chứng khoán; Tổ chức BHTG và Cơ quan giám sát quốc gia về tài chính – ngân hàng. Trong đó, tổ chức BHTG có vai trò không thể thiếu trong việc thiếu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ giám sát an toàn, phối hợp hoạt động, chia sẻ thông tin và chịu trách nhiệm với các cơ quan khác về sự an toàn và phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính – ngân hàng. Với chức năng giám sát từ xa, tổ chức BHTG đã đánh giá được rủi ro của từng tổ chức tham gia BHTG, góp phần đảm bảo an toàn và sự phát triển bền bình thường của cả hệ thống tài chính – ngân hàng. Đây là chức năng không thể thiếu của tổ chức BHTG và nó là thuộc tính của tổ chức BHTG.
Bên cạnh đó, khi một tổ chức tham gia BHTG gặp rủi ro, tổ chức BHTG phải đứng ra chi trả bảo hiểm, điều đó cũng có nghĩa là tổ chức BHTG cũng gặp rủi ro. Vì vậy, để thực hiện tốt được chức năng bảo hiểm của mình, tổ chức BHTG phải tham gia vào quá trình giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia BHTG. Từ kết quả giám sát, tổ chức BHTG đưa ra những khuyến nghị cho các tổ chức tham gia BHTG nhằm ngăn ngừa rủi ro, hạn chế đổ vỡ và trong giới hạn cho phép, tổ chức BHTG còn có thể hỗ trợ, thậm chí có quyền can thiệp vào hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG khi có đấu hiệu mất an toàn.
1.2.3.2 Đối tượng giám sát
Đối tượng giám sát là các tổ chức tài chính có thực hiện hoạt động nhận tiền gửi của các chủ thể dưới các hình thức nhất định trong nền kinh tế và tham gia BHTG. Tổ chức tài chính có thể là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (TCTD phi NH). Việc tham gia BHTG có thể theo cơ chế tự nguyện (nghĩa là các tổ chức tài chính thực hiện hoạt động nhận tiền gửi
của các chủ thể trong nền kinh tế có quyền quyết định tham gia BHTG hay không, pháp luật không bắt buộc) hoặc theo cơ chế bắt buộc (nghĩa là các tổ chức tài chính nhận tiền gửi các chủ thể trong nền kinh tế theo pháp luật phải tham gia BHTG bắt buộc). Hiện nay, phần lớn các nước có hệ thống tham gia BHTG theo cơ chế bắt buộc nhằm tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức tài chính, tạo năng lực tài chính cho tổ chức BHTG. Bên cạnh đó, rủi ro sẽ được phân bổ cho các đối tượng đa dạng, tránh tình trạng chỉ có tổ chức tài chính yếu kém mới tham gia BHTG, còn những tổ chức tài chính hoạt động tốt thì không tham gia BHTG. Điều này làm giảm mức độ rủi ro của bản thân tổ chức tham gia BHTG và gánh nặng của Chính Phủ trong việc tài trợ các hoạt động xử lý.
1.2.3.3 Nội dung giám sát của tổ chức BHTG
Các tổ chức BHTG khác nhau có những nội dung giám sát khác nhau.
Tuy nhiên cơ bản gồm những nội dung sau:
a) Giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, bao gồm:
- Giám sát hồ sơ tham gia BHTG và việc chấp hành chế độ thông tin báo cáo của BHTG.
Thông tin đầu vào là những cơ sở quan trọng phục vụ hoạt động giám sát. Thông tin đầu vào bao gồm các thông tin tài chính được thể hiện trong các báo cáo kế toán, báo cáo thống kê và thông tin phi tài chính trong các báo cáo hoạt động ngân hàng. Mỗi loại thông tin đều có giá trị riêng, thông tin tài chính cho biết thực trạng hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG tại thời điểm giám sát, các thông tin phi tài chính cho biết xu thế, triển vọng trong tương lai. Việc kết hợp cả hai nguồn thông tin sẽ cho một nguồn cơ sở đầu vào tốt, đáp ứng nghiệp vụ giám sát của tổ chức BHTG.
- Giám sát về chấp hành quy định của pháp luật về phí BHTG.
Phí BHTG được tính trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân của tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Phí BHTG phụ thuộc vào đối
tượng tính và nộp phí, cách tính và phương pháp tính phí, thời gian nộp phí,… và có sự khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào chính sách BHTG tại mỗi quốc gia đó. Đây là cơ sở quan trọng giúp tổ chức BHTG thực hiện chính sách BHTG của mình. Việc giám sát phí BHTG giúp tránh các sai phạm về phí của tổ chức tham gia BHTG.
b) Giám sát việc chấp hành các quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng, đánh giá mức độ rủi ro và tình hình tài chính của tổ chức tín dụng
Thực hiện chức năng giám sát an toàn hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, các tổ chức BHTG đã và đang hướng đến thống nhất sử dụng những tiêu chuẩn được thông qua bởi hiệp hội ngân hàng quốc tế quy định về mức độ an toàn và quản lý rủi ro tín dụng đối với ngân hàng (Hiệp ước BASEL) trong hoạt động giám sát các tổ chức tham gia BHTG.
Các cơ quan giám sát trên thế giới đã nghiên cứu, xây dựng nhiều phương pháp để cải thiện hiệu quả giám sát. Một mô hình giám sát được áp dụng phổ biến là mô hình CAMELS, CAMELS được viết tắt bởi các từ:
C (Capital): Vốn
A (Assets quality): Chất lượng tài sản có M (Management ability): Năng lực quản lý E (Earnings): Lợi nhuận
L (Liquidity): Khả năng thanh khoản
S (Sensitivity to Market Risk): Độ nhạy cảm với rủi ro thị trường.
Đây là các nội dung quan trọng mà các nhà phân tích cần làm rõ. Trong nhiều trường hợp, các nội dung này cần phải được thực hiện kèm với các biện pháp khác để giải quyết những rủi ro trong hệ thống tài chính của từng quốc gia riêng biệt.
Trong hoạt động ngân hàng, các nội dung trên có vai trò quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi ngân hàng. Nếu quản lý tốt các lĩnh vực đó sẽ giảm thiểu sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng.
* Giám sát vốn của tổ chức tín dụng (C)
Nguồn vốn của TCTD bao gồm vốn tự có, vốn huy động, vốn vay, vốn và các quỹ khác.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, vốn tự có của ngân hàng rất quan trọng mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (khoảng dưới 10%). Vốn tự có của ngân hàng là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc về sở hữu của ngân hàng. Nó là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng và có vai trò trong việc quyết định quy mô và phạm vi kinh doanh.
Tổ chức BHTG giám sát vốn tự có thông qua các chỉ tiêu Vốn điều lệ, Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, phân tích, đánh giá về tỷ lệ của vốn tự có trên tổng nguồn vốn, tỷ lệ tăng giảm so với các kỳ trước nhằm thấy rõ biến đổi trọng yếu của vốn điều lệ của tổ chức tham gia BHTG.
Ngoài ra, nguồn vốn của TCTD còn được giám sát thông qua hệ số an toàn vốn. Đây là chỉ tiêu phản ánh mức độ an toàn vốn, thể hiện ở số vốn tự có để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
Hệ số an toàn vốn = Vốn tự có/Tổng tài sản Có rủi ro
Tỷ lệ này thể hiện đòn bẩy tài chính của TCTD. TCTD càng chấp nhận nhiều rủi ro càng đòi hỏi phải có nhiều vốn tự có để hỗ trợ hoạt động ngân hàng và bù đắp tổn thất tiềm năng liên quan đến mức độ rủi ro cao hơn.
Mức độ an toàn vốn của TCTD cũng được đánh giá qua tình hình tăng trưởng vốn huy động, cơ cấu vốn huy động và một số các yếu tố như:
+ Quy mô và chất lượng nguồn vốn.
+ Kế hoạch và chính sách bổ sung vốn trong tương lai.
+ Uy tín trên thị trường vốn.
+ Kết quả hoạt động kinh doanh và lợi nhuận để lại.