và quản lý hoặc là một đơn vị thuộc NHTW hoặc cơ quan giám sát.
Kết quả nghiên cứu cho thấy một tổ chức BHTG hoạt động hiệu quả nhất, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền là tổ chức có nhiệm vụ được quy định rõ ràng, được trao đầy đủ quyền hạn để thực thi nhiệm vụ được giao và được tạo điều kiện độc lập trong hoạt động.
1.4.2.Các nhân tố chủ quan
Về nguồn nhân lực:
Việc tuyển dụng nhân lực phải dựa trên cơ sở nhu cầu công việc để lựa chọn cán bộ cho phù hợp.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng giám sát an toàn và xử lý: Việc đảm bảo giám sát an toàn và cơ chế xử lý đủ mạnh, đảm bảo các điểm yếu của một Tổ chức BHTG được phát hiện và khắc phục kịp thời, giúp hạ thấp chi phí phát sinh do đổ vỡ ngân hàng. Việc can thiệp vào các ngân hàng yếu kém bị chậm trễ có thể làm tăng chi phí xử lý và tăng chi phí phát sinh cho Tổ chức BHTG.
Đào tạo cán bộ về kế toán giúp cung cấp thông tin chuẩn, đây cũng là điều kiện cần thiết để các hệ thống BHTG đánh giá rủi ro hiệu quả. Thông tin chính xác, tin cậy và kịp thời có thể được những người quản lý, người gửi tiền, thị trường và các cơ quan có thẩm quyền sử dụng để ra quyết định liên quan đến rủi ro của một tổ chức; qua đó tăng cường kỷ luật thị trường, nguyên tắc điều tiết và giám sát.
Chú trọng đào tạo cán bộ kỹ năng cao: Cán bộ được tuyển dụng cho mục đích xây dựng nguồn nhân lực có kỹ năng cao cần được tiếp tục đào tạo qua hình thức sau: đào tạo nâng cao và chuyên sâu theo các khóa học trong và ngoài nước; đào tạo qua công việc và đào tạo kỹ năng quản lý; kinh tế phát triển, khóa học chính sách tài chính và ngân hàng, kinh tế công cộng… Có kế hoạch luân chuyển theo định kỳ qua hầu hết các nghiệp vụ cơ bản đối với
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động Kiểm soát đặc biệt của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - 2
- Hoạt Động Kiểm Soát Đặc Biệt Của Tổ Chức Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Vai Trò Của Tổ Chức Bhtg Đối Với Quá Trình Ksđb
- Thực Trạng Hoạt Động Kiểm Soát Đặc Biệt Của Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam
- Hoạt Động Tham Gia Kiểm Soát Đặc Biệt A.cử Cán Bộ Tham Gia Các Ban Kiểm Soát Đặc Biệt
- Quy Trình Cơ Bản Về Cho Vay Đặc Biệt Để Hỗ Trợ Thanh Khoản
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
những cán bộ thuộc diện quy hoạch. Đồng thời chú trọng đào tạo kỹ năng mềm như: quản lý và tổ chức triển khai công việc; tập hợp quần chúng, mở rộng quan hệ và hợp tác trong công việc; làm việc độc lập, tự chủ và sáng tạo; tính kiên quyết, có trách nhiệm, khả năng hoàn thành kế hoạch có thời hạn; khả năng chịu áp lực cao của công việc…
Có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, có kinh nghiệm làm việc lâu năm trong ngành, chịu được áp lực công việc, xử lý tốt các tình huống phát sinh; Xây dựng và tạo mối quan hệ tốt với các thành viên, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được phân công.
Về nguồn vốn hoạt động của BHTG
Cơ quan BHTG có nhiệm vụ quản lý, sử dụng và bảo toàn nguồn vốn BHTG. Trong đó, nguồn vốn của BHTG bao gồm vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp, nguồn thu từ phí BHTG, nguồn thu từ hoạt động đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi và nguồn thu khác theo quy định của pháp luật. Quy mô vốn hoạt động của BHTG phụ thuộc vào nhiều yếu tố như hạn mức bảo hiểm, sự sẵn có các cơ chế cấp vốn khẩn cấp, chức năng của tổ chức BHTG (chi trả hay cả xử lý), chính sách đầu tư quỹ BHTG, cơ chế giám sát và xử lý, tình hình kinh tế tài chính ngân hàng,...nên không có một công thức chung nào xác định quy mô vốn hoạt động.
Kinh nghiệm của số quốc gia sử dụng phương pháp tùy ý đã xây dựng quỹ mục tiêu với quy mô có thể xử lý được khoảng 01 ngân hàng lớn hoặc 2- 3 ngân hàng cỡ trung bình, hoặc 3-4 ngân hàng nhỏ. Có những nước khác với kinh nghiệm xử lý khủng hoảng trong quá khứ lại chuẩn bị quy mô vốn hoạt động ở mức cao hơn để phòng ngừa những khủng hoảng tương tự xảy ra trong tương lai.
Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG trong việc tham gia quá trình xử lý đổ vỡ
Trong trường hợp ngân hàng bị đổ vỡ, quyền lợi của người gửi tiền được đảm bảo thông qua việc tổ chức BHTG sẽ thực hiện chi trả cho người gửi tiền theo hạn mức chi trả hoặc chi trả toàn bộ tùy theo từng thời kỳ và tình huống xẩy ra hiện tượng BHTG. Số tiền gửi vượt hạn mức sẽ được xem xét chi trả trong giai đoạn thanh lý tài sản của ngân hàng đóng cửa. Tổ chức BHTG thông báo công khai về thời gian, phương thức, số tiền chi trả để người gửi tiền biết và tiếp cận nhanh chóng với tài khoản tiền gửi của họ. Hạn mức chi trả đã bảo vệ được đa số người gửi tiền, đặc biệt bảo vệ toàn bộ người gửi tiền với số lượng tiền gửi nhỏ, đối tượng thường gặp khó khăn nhất khi ngân hàng không có khả năng chi trả tiền gửi, và là đối tượng thường dễ bị ứng xử quá đỗi trước thông tin thất thiệt về hoạt động ngân hàng. Các tổ chức BHTG luôn cố gắng chi trả tiền bảo hiểm sớm nhất để tránh tâm lý căng thẳng, chờ đợi của người gửi tiền.
Hoạt động giám sát, kiểm tra là nghiệp vụ quan trọng của tổ chức BHTG nhằm gián tiếp bảo vệ người giử tiền. Hầu hết các hệ thống BHTG trên thế giới đều có chức năng này. Giám sát và kiểm tra phát hiện vi phạm và khó khăn ngân hàng, từ đó đề xuất cảnh báo, khuyến nghị để ngân hàng chấn chỉnh, khắc phục kịp thời. Trong giới hạn cho phép, tổ chức BHTG có thể hỗ trợ, can thiệp vào hoạt động của ngân hàng khi có dấu hiệu mất an toàn.
Người gửi tiền được cung cấp đầy đủ thông tin về chính sách và hoạt động BHTG từ tổ chức BHTG, nhằm mục đích tiếp cận, nâng cao những hiểu biết cần thiết để có sự lựa chọn dịch vụ tốt nhất, biết được quyền lợi, nghĩa vụ khi tham gia vào thị trường tài chính – ngân hàng. Tổ chức BHTG ở mỗi quốc gia có cách thức bảo vệ người gửi tiền thông qua việc minh bạch thông tin. Ở
Mỹ, tổ chức BHTG đã có nhiều hoạt động tích cực để truyền tải thông tin đến người gửi tiền, như giới thiệu chương trình khéo dùng tiền đến công chúng là những đối tượng trưởng thành hoặc giới thiệu trong các trường học, sử dụng website trợ giúp miễn phí đối với người gửi tiền, công khai, minh bạch hóa các thông tin liên quan đến hoạt động tín dụng trên website v.v.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SOÁT ĐẶC BIỆT CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM
2.1. Khái quát về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
2.1.1. Khái quát về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
BHTGVN đã được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ, và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 07/07/2000 theo khung pháp lý là Nghị định 89/1999/NĐ-CP.
Đến năm 2005, Nghị định 109/2005/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về BHTG, cùng với Quyết định 75/2000/QĐ-TTg. Theo các văn bản pháp lý này, BHTGVN là tổ chức duy nhất thực hiện chính sách BHTG nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền; hỗ trợ các TCTD gặp khó khăn; kiểm soát và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Năm 2012, Luật BHTG ra đời, là khung pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động BHTG ở Việt Nam. Theo đó, BHTGVN là tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách BHTG, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Năm 2017, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD số 17/2017/QH14 được Quốc hội thông qua vào ngày 20/11/2017 và có hiệu lực từ 15/01/2018 đã tạo ra cơ sở pháp lý củng cố, lành mạnh hóa hệ thống các TCTD. Theo đó, BHTGVN được trao thêm một số chức năng, nhiệm vụ theo hướng tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các TCTD một cách phù hơp với nguồn lực, quy mô, hoạt động của tổ chức.
Từ đó đến nay, BHTGVN đã tích cực thực hiện chức năng của mình là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thực hiện chính sách BHTG góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Hiện nay, hệ thống BHTGVN gồm có Trụ sở chính và 8 Chi nhánh khu vực hoạt động trên địa bàn cả nước. Tổ chức bộ máy của BHTGVN bao gồm Hội đồng quản trị, Ban điều hành cùng các Phòng, ban chuyên môn nghiệp vụ. Các Chi nhánh cũng hình thành các phòng nghiệp vụ về BHTG.
Bảng 2.3: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của BHTGVN
Nguồn: www.div.gov.vn
Hiện nguồn vốn của BHTGVN được tích lũy dựa trên 4 cấu phần, gồm:
- Vốn điều lệ do Nhà nước cấp;
- Nguồn thu từ phí BHTG hàng năm;
- Nguồn thu từ hoạt động đầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi;
- Các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật.
Trong đó, nguồn thu phí BHTG đóng góp một phần lớn vào nguồn lực tài chính của BHTGVN.
2.1.2. Các hoạt động nghiệp vụ chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Sau hàng khi loạt các hợp tác xã tín dụng bị đổ vỡ vào năm 1988-1990, Việt Nam đã tổ chức nghiên cứu ứng dụng công cụ BHTG. BHTGVN được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 07/7/2000, là tổ chức duy nhất triển khai hoạt động BHTG tại Việt Nam. BHTGVN đang bảo vệ hàng triệu người gửi tiền cá nhân bằng Việt Nam đồng tại gần 1.300 tổ chức tham gia BHTG trên toàn quốc bao gồm: NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, NHHTX, QTDND và tổ chức tài chính vi mô. Các tổ chức này được yêu cầu bắt buộc tham gia BHTG và nộp phí theo quy định để bảo hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền.
Khi TCTD hoạt động bình thường, quyền lợi người gửi tiền được đảm bảo thông qua các hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN, như: kiểm tra, giám sát định kỳ tháng, quý năm đối với tổ chức tham gia BHTG. Thông qua đó, có thể phát hiện sớm các vi phạm quy định về BHTG và an toàn trong hoạt động ngân hàng để báo cáo kiến nghị NHNN xử lý kịp thời.
Khi TCTD đổ vỡ, người gửi tiền được bảo vệ thông qua việc nhận tiền chi trả bảo hiểm. Theo quy định có hiệu lực áp dụng từ ngày 5/8/2017, mức trả tiền bảo hiểm đối với tiền gửi của người dân tại các TCTD bị phá sản bao gồm cả gốc và lãi cho vay của một cá nhân tối đa là 75 triệu đồng.
Cấp và thu hồi giấy chứng nhận tham gia BHTG
Tính đến ngày 30/6/2019, có 1.275 tổ chức tham gia BHTG, bao gồm 93 ngân hàng và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 01 NHHTX và 1.177 QTDND, 04 tổ chức tài chính vi mô. BHTGVN đã hoàn thành cấp mới Chứng nhận, cấp lại Chứng nhận và cấp bản sao Chứng nhận tham gia BHTG; thu hồi Chứng nhận tham gia BHTG, cập nhật thay đổi thông tin
Chứng nhận tham gia BHTG cho các tổ chức tham gia BHTG kịp thời, đúng quy định, đáp ứng nhu cầu của các TCTD, góp phần nâng cao vị thế của BHTGVN và niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng.
Tính và thu phí BHTG
Luật BHTG quy định Thủ tướng Chính phủ quy định: khung phí BHTG theo đề nghị của NHNN. Căn cứ vào khung phí BHTG, NHNN quy định mức phí BHTG cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại tổ chức này.
Quy định về việc tính và thu phí BHTG được thực hiện dựa trên số dư bình quân tiền gửi của cá nhân bằng đồng Việt Nam gửi tại các tổ chức tham gia BHTG. Hiện nay, mức phí BHTG là 0,15%/năm trên tổng số dư tiền gửi bình quân được bảo hiểm, áp dụng đồng hạng đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG.
BHTGVN đã thực hiện tốt công tác quản lý thu phí BHTG, tích cực đôn đốc, hướng dẫn, giải đáp các vướng mắc và xử lý kịp thời các vi phạm trong việc tính và nộp phí BHTG. Trong 6 tháng đầu năm 2019, BHTGVN đã thực hiện thu phí BHTG đối với các tổ chức tham gia BHTG với tổng số phí thực thu là 3.500 tỷ đồng, tăng gần 9% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, các tổ chức tham BHTG gửi đã thực hiện nghiêm túc việc tính và nộp phí theo quy định.
Giám sát và kiểm tra
Theo quy định của Luật BHTG, BHTGVN có nghĩa vụ tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, Luật BHTG cũng quy định BHTGVN có quyền theo dõi, kiểm tra việc chấp hành