Tóm lại, BHTG dù có tồn tại dưới hình thức bắt buộc hay tự nguyện nó đều có một mục tiêu là bảo đảm an toànvừa cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vừa cho người gửi tiền. Nó chỉ khác ở chỗ, ở hình thức BHTG thì tiền gửi được bảo đảm trực tiếp, còn ở hình thức bảo toàn tiền gửi thì tiền gửi lại được bảo đảm một cách gián tiếp.
chương II: thị trường bhtg ở việt nam
I. tính tất yếu khách quan hình thành thị trường Bhtg
việt nam
Như chúng ta đã biết, mọi khoản tiền gửi ở hệ thống ngân hàng thương mại và các TCTD là tài sản của người gửi tiền. Họ gửi vào ngân hàng với nhiều động cơ và mục đích khác nhau: tiết kiệm, để dành hay tích luỹ; lấy lãi để thanh toán hoặc đảm bảo an toàn tài sản của mình.
Nguồn vốn huy động được từ tầng lớp dân cư và thành phần kinh tế, xã hội là nguồn vốn kinh doanh chủ yếu trong hoạt động của ngân hàng thương mại và các TCTD theo phương thức "đi vay để cho vay". Thông qua đó, ta thấy rõ mối quan hệ trách nhiệm giữa người đi huy động vốn và người đi gửi tiền có sự bảo đảm pháp lý cao nhất của nhà nước theo nguyên tắc, người gửi tiền vào ngân hàng phải được ngân hàng có trách nhiệm bảo đảm an toàn vốn một cách tuyệt đối.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - 1
- Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - 2
- Những Điểm Còn Tồn Tại Thị Trong Thị Trường Bhtg Ở Việt Nam
- Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - 5
- Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - 6
- Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - 7
Xem toàn bộ 65 trang tài liệu này.
Thêm vào đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ rất phức tạp và có nhiều rủi ro ; tập trung chủ yếu, thường xuyên xảy ra và lớn nhất là rủi ro trong đầu tư vốn tín dụng. Trong đó, có những rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng. Năm 1990, ở nước ta có 7. 660 HTX tín dụng nông thôn và quỹ tín dụng đô thị. Song "cơn lốc" đổ vỡ tín dụng trong khoảng thời gian này đã làm tan rã hầu hết số HTX tín dụng và quỹ tín dụng nói trên. Hàng nghìn tỷ đồng không có khả năng thanh toán, hậu quả của nó rất nghiêm trọmg đối với kinh tế xã hội và đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm được. Chính phủ và ngân hàng nhà nước đã phải trực tiếp can thiệp để làm dịu tình hình, giữ vững ổn định kinh tế xã hội. Trong năm 1996, sau hơn 20 năm chúng ta mới gặp lại trận lũ lịch sử trên khắp cả nước. Thiên tai xảy ra ở 43 tỉnh, thành phố, chỉ tính riêng thiệt hại về vật chất ước tính trên 7. 283 tỷ đồng. Thêm vào đó, từ năm 1997 đến nay, cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một số nước trong khu vực. Việt Nam là một trong số các nước chịu ảnh hưởng nhẹ của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á. Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi ở các ngân hàng thương mại còn cao. Nguyên nhân do hệ thống tài chính- ngân hàng phát triển không đồng bộ, còn lỏng lẻo trong quản lý ngân hàng cũng như quản lý vốn, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Ngân hàng chi vay thế chấp bằng bất động sản, khi thị trường bất động sản Việt Nam suy giảm, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sản xuất kinh doanh không lường hết được nhu cầu thị trường nên không tiêu thụ được hàng hoá. Doanh nghiệp trong nước hiệu quả kinh doanh thấp, khả năng tài chính và sự cạnh tranh yếu, việc mở rộng bảo lãnh nhập hàng trả chậm, cho vay thanh toán đối ngoại tràn lan, khi doanh nghiệp thua lỗ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thanh toán với nước ngoài. Rủi ro của khách hàng sẽ kéo theo sau là rủi ro của chính ngân hàng. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động tín
dụng là điều dễ xảy ra hơn bất kỳ lĩnh vực hoạt động kinh tế nào khác. Sự đổ vỡ trong hoạt động tín dụng sẽ để lại những hậu quả mang tính dây chuyền và công phạt khôn lường về kinh tế, chính trị và xã hội. Nó liên quan đến lợi ích của nhà nước và nhiều tầng lớp dân cư.
Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, khi những tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng ngoài quốc doanh như các ngân hàng thương mại cổ phần, các HTX tín dụng, các quỹ tín dụng nhân dân mới bước vào nghề thì mọi việc còn quá sớm, niềm tin của khách hàng chưa có là bao, trong khi đó dư âm về sự đổ vỡ hàng loạt HTX tín dụng trước đây vẫn còn "ám ảnh" trong dân. Trước tình hình đó, một vấn đề nghiêm túc đặt ra với nhà nước và xã hội là tìm những giải pháp hữu hiệu để đề phòng và ngăn chặn sự đổ bể, sự mất an toàn của hệ thống ngân hàng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng cho người gửi tiền. Do đó, cách bảo toàn chọn vẹn, có hiệu quả nhất để đảm bảo cho người gửi tiền là áp dụng biện pháp BHTG cho người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng thương mại và các TCTD.
Thực tế trên đây cho thấy việc ra đời một công ty BHTG ở Việt nam đã trở thành nhu cầu bức xúc. Nó sẽ là chỗ dựa vững chắc để khắc phục rủi ro tín dụng và làm lành mạnh hoạt động tín dụng của ngân hàng, giúp cho thị trường tài chính của ta phát triển ổn định hơn, từ đó tạo đà cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhanh hơn, đưa nước ta rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực cũng như các nước phát triển trên thế giới.
II. Thực trạng BHTG ở việt nam
1. Thực trạng về hoạt động BHTG ở Việt Nam hiện nay
Hệ thống ngân hàng ở Việt nam hiện nay là hệ thống ngân hàng hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại hoạt động theo cơ chế thị trường, tuan theo "pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam" và " pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính". Hệ thống các tổ chức tín dụng đã có một mạng lưới rộng lớn, bao gồm ngân hàng nhà nước, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 51 ngân hàng cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 2 công ty tài chính cổ phần, 1 quỹ tín dụng nhân dân trung ương, 5 quỹ tín dụng nhân dân khu vực, 900 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Năm 1996 so với năm 1995, vốn huy động tiền gửi của các ngân hàng tăng 659%, dư nợ cho vay tăng 883%.
Để củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với các quỹ tín dụng nhân dân, tạo cơ sở cho các quỹ tín dụng nhân dân hoạt động ổn định và phát triển, ngày 1/ 3/ 1994 Bộ tài chính đã ban hành quyết định 101/ TCQĐ-BH về quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi. Với quyết định này, lần đầu tiên nước ta có một tổ chứclà Bảo Việt thực hiện nghiệp vụ BHTG. Song người gửi tiền được bảo hiểm chỉ giới hạn gửi tại các quỹ tín dụng nhân dân, loại tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên, mức tối đa là 100 triệu đồng đối với một thể nhân, 500 triệu đồng đối với một pháp nhân, và chỉ bồi thường tiền gốc không bồi thường tiền lãi. Thực tế triển khai BHTG của Bảo Việt còn nhiều hạn chế, đến cuối năm 1995 mới chỉ có 162 quỹ tín dụng tham gia với sổ tiền bảo hiểm là 100 tỷ đồng, chiếm 33, 22% tiền gửi tại các quỹ tín dụng nhân dân, và chỉ chiếm 0, 2% tổng số dư tiền gửi tại các TCTD trong cả nước, cuối năm 1996 có 300 quỹ tham gia bảo hiểmvới số tiền bảo hiểm hơn 854 tỷ đồng và cuối quý 1 năm 1997 có 370 quỹ tham gia với số tiền bảo hiểm hơn 322 tỷ đồng. Hiện nay hiệp hội ngân hàng Việt Nam đang chuẩn bị thành lập quỹ BHTG của hiệp hội. Nghiên cứu dự thảo Điều lệ hoạt động quỹ BHTG của các TCTD Việt nam và quy chế hoạt động quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng Việt Nam, chúng ta thấy rằng:
-Quỹ BHTG là quỹ của các thành viên hiệp hội, có mục đích bảo vệ an toàn cho các thành viên. Song quỹ là một tổ chức tương hỗ, không có vốn ban đầu, chỉ khi nào đi vào hoạt động các ngân hàng tham gia mới đóng lệ phí nên nguồn vốn của qũy rất nhỏ bé, do đó nếu rủi ro lớn quỹ sẽ không đủ vốn để thực hiện trách nhiệm đền bù của mình.
-Quỹ bảo toàn tiền gửi là một quỹ tương hỗ nên việc đóng góp vốn lập quỹ, đặc biệt là các khoản đong góp bất thường sẽ bị ràng buộc bởi chế độ tà chính của nhà nước quy định.
-Quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng Việt Nam chỉ là quỹ của các hội viên hiệp hội, do đó các chi nhánh nước ngoài, các ngân hàng liên doanh và các ngân hàng khác sẽ không được tham gia BHTG.
-Do đặc điểm phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam, hiện nay vốn tiền gửi do 4 ngân hàng quốc doanh huy động đã chiếm khoảng 90% tổng doanh số huy động trong toàn hiệp hội. Điều đó có nghĩa là quỹ bảo toàn tiền gửi nếu được hình thành thì chủ yếu do 4 ngân hàng thương mại quốc doanh đóng góp, song nếu các ngân hàng quốc doanh có rủi ro thì quỹ sẽ gặp khó khăn về vốn để đền bù, thập chí không thực hiện được vì doanh số hoạt động của các ngân hàng quốc doanh rất lớn. Song, nếu các ngân hàng khác gặp rủi ro thì quỹ sẽ thực hiện đền bù dễ dàng hơn. Đây chính là điểm bất bình đẳng về lợi ích giữa các thành viên trong hiệp hội.
Cho đến nay, mặc dù tổ chức BHTG mới được thành lập vào tháng 7/2000 nhưng trình độ chuyên môn chưa cao, quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ hẹp, vốn tự có chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu BHTG đối với các ngân hàng lớn mạnh.
Mặt khác đại bộ phận tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và các TCTD chưa được bảo hiểm. Số tiền được bảo hiểm mới chỉ là một bộ phận tiền gửi tại các quỹ tín
dụng nhân dân, tập trung chủ yếu tại các vùng nông thôn và chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng số dư tiền gưỉ mà hệ thống ngân hàng huy động trong toàn quốc.
Thêm vào đó, việc Bảo Việt BHTG cho các quỹ tín dụng nhân dântheo quyết định 101/TCQ-BH với giới hạn chỉ bảo hiểm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên. Trên thực tế số tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân và các tổ chức kinh tế xã hội là rất lớn nhưng không được bảo hiểm, điều đó sẽ hạn chế khả năng huy động vốn của các TCTD. Theo quy định hiện hành Bảo Việt chỉ trả bồi thường sau khi quỹ tín dụng tham gia bảo hiểm ngừng hoạt động 1 tháng, và chỉ trả tiền gốc. Như vậy, nếu là người gửi tiền chỉ cần nghe tin quỹ tín dụng khó khăn về tài chính thì họ sẽ đổ xô đến để rút tiền nhằm lấy lại cả gốc lẫn lãi, đồng thời tránh được phải chờ đợi lâu trong trường hợp phải nhận tiền bồi thường từ bảo hiểm. Rõ ràng trong tình huống này hoạt động bảo hiểm cũng không có mấy tác dụng ngăn ngừa sự hoảng loạn ngân hàng khi gặp rủi ro.
Ngoài ra quyết định trường hợp quỹ tín dụng tham gia bảo hiểm nếu vi phạm nghiêm trọng pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính thì rủi ro sẽ không được bồi thường. Điều này là chưa thoả đáng, bởi vì bồi thường rủi ro là bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền. Khi hợp đồng bảo hiểm chưa bị huỷ bỏ, khi vi phạm pháp luật là do lỗi của TCTD và lỗi của cơ quan bảo hiểm thiếu kiểm tra giám sát để phát hiện, chấn chỉnh kịp thời thì hậu quả không nên để cho người gửi tiền gánh chịu.
Nhìn chung, hiện nay ở Việt Nam nghiệp vụ BHTG rất còn mới mẻ và chưa phát triển như các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nó vẫn trong thời gian thử nghiệm và hoàn thiện dần cho phù hợp với điều kiện cũng như hoàn cảnh của đất nước. Chính vì vậy, Chính phủ và ngân hàng nhà nước cần coi hoạt động BHTG là một mắt xích quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc gia, nó có vai trò đòn bẩy thu hút tiền gửi và đảm bảo tạo ra sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng thương mại. Đồng thời phải có những quy định cụ thể về các nội dung của BHTG.
2. Nội dung hoạt động nghiệp vụ BHTG áp dụng ở Việt Nam
a.Tổ chức kinh doanh BHTG
Tổ chức BHTG là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động dưới sự điều tiết của Thủ tướng Chính phủ, được nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, có tư cách pháp nhân và được miễn nộp các loại thuế. Trong trường hợp thiếu vốn tạm thời, tổ chức BHTG phải báo cáo ngân hàng nhà nước để ngân hàng nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép tổ chức BHTG được vay từ các TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ. Tuy nhiên, trong thời gian đầu của bước sơ khai thì ngân hàng nhà nước có thể giúp đỡ BHTG nhưng về lâu dài ngân hàng nhà nước không thể làm thay (vì đó là tác nghiệp cụ thể của BHTG Việt Nam) không thuộc chức năng của ngân hàng nhà nước.
b. Phí bảo hiểm tiền gửi
Phí BHTG được điều chỉnh theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, mức hiện hành là 0, 15%/ năm trên số dư tiền gửi bình quân tại các tổ chức tham gia BHTG, được nộp làm 4 lần trong năm tài chính. Có thể thấy rằng, mức phí này áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng là chưa hợp lý. Vì mức độ rủi ro của mỗi loại hình tổ chức tín dụng có khác nhau, do mục đích và tính chất hoạt động khác nhau, do trình độ quản trị, điều