Bảo Đảm Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Được Thi Hành Án Thông Qua Biện Pháp Bảo Đảm Tạm Giữ Tài Sản, Giấy Tờ Của Đương Sự

Bên cạnh những quy định mới nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, pháp luật thi hành án dân sự cũng đã chú trọng tới những quy định bảo đảm quyền lợi của người phải thi hành án. Một trong số đó chính là quy định việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án phải tuân thủ nguyên tắc: Chỉ phong tỏa số tiền tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành án của người phải thi hành án, đối với số dư còn lại trong tài khoản thì người phải thi hành án được quyền tự do giao dịch để bảo đảm duy trì sự hoạt động bình thường của mình. Theo quy định này, nội dung quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ phải xác định rõ số tiền, tài sản bị phong tỏa, số tiền còn lại trong tài khoản của người phải thi hành án vẫn được giao dịch bình thường. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người phải thi hành án, bởi việc chỉ phong tỏa một phần tiền cụ thể theo nghĩa vụ thi hành án mà họ phải thực hiện sẽ không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ tài khoản, các khoản tiền vào tài khoản vẫn được thực hiện bình thường, các khoản ra từ tài khoản cũng chỉ bị hạn chế trong phạm vi khoản tiền bị phong tỏa. Quy định này đã hạn chế những thiệt hại không đáng có cho người phải thi hành án, từ đó hạn chế phát sinh khiếu nại gay gắt, kéo dài của đương sự, ảnh hưởng đến kết quả tổ chức thi hành án.

Việc quy định trình tự, thủ tục thực hiện chặt chẽ đã tạo điều kiện cho chấp hành viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, hạn chế tối đa việc tẩu tán tiền, tài sản của người phải thi hành án, thông qua đó bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

2.2.2. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án thông qua biện pháp bảo đảm tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

Khác với biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ, Pháp lệnh THADS năm 2004 không quy định về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ

của đương sự. Biện pháp này mới được quy định tại Luật THADS 2008, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự. Quy định này đã tạo ra hành lang pháp lý bảo đảm sự tác nghiệp của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự, tạo điều kiện một cách tốt nhất để Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ của mình, tạo ra bước đột phá, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Đến Luật THADS năm 2014, quy định về tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự càng được hoàn thiện theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Cụ thể:

Về đối tượng áp dụng

Luật THADS năm 2014 quy định đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ là “tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà đương sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng”. Như vậy, so với Luật THADS năm 2008 thì đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ đã được mở rộng hơn, không chỉ là tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng mà còn có thể tài sản, giấy tờ do tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng. Quy định mới đã góp phần nâng cao hiệu quả của biện pháp trong việc bảo toàn tài sản, ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án.

Một điểm cần lưu ý khi áp dụng biện pháp tạm giữ giấy tờ của đương sự là: nếu Chấp hành viên tiến hành tạm giữ giấy tờ liên quan đến các động sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng; giấy tờ có giá hoặc giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng đối với bất động sản của người phải thi hành án,… để bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án, nếu xét thấy cần thiết thì Chấp hành viên có thể đồng thời tạm giữ cả tài sản của người phải thi hành án.

Về quyền yêu cầu áp dụng

Luật THADS hiện hành đã trao quyền yêu cầu áp dụng biện pháp tạm giữ cho tất cả đương sự, qua đó tăng cường các trường hợp được áp dụng biện pháp này, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Thông thường người được thi hành án chính là người đề nghị Chấp hành viên áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo đảm việc thi hành án. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người phải thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc dù không mong muốn tự nguyện thi hành nghĩa vụ thi hành án nhưng do tài sản, giấy tờ thuộc đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản đang do người thứ ba chiếm giữ, vượt ngoài tầm kiểm soát của họ, và để ngăn ngừa, hạn chế thiệt hại lớn hơn mà người phải thi hành án đã yêu cầu Chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ giấy tờ, tài sản

Luật THADS sửa đổi năm 2014 đã quy định chặt chẽ, chi tiết hơn về trình tự, thủ tục tạm giữ tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án. Bên cạnh đó, Luật THADS năm 2014 cũng đã có những điều chỉnh nhằm bảo đảm tốt hơn cho quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án trong trường hợp đặc biệt. Theo đó, trong trường hợp cần tạm giữ ngay tài sản, giấy tờ (khi tài sản, giấy tờ có nguy cơ bị tẩu tán, tiêu hủy; hoặc khi Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ tại địa bàn xa trụ sở cơ quan thi hành án dân sự) thì Chấp hành viên yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập biên bản về việc tạm giữ; Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Đây là một quy định mới trong Luật THADS sửa đổi 2014, nhằm đảm bảo tốt hơn điều kiện thi hành án, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành - 5

Để bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án thì vấn đề bảo quản tài sản, giấy tờ sau tạm giữ cũng có một số

điểm cần lưu ý. Theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 thì tài sản, giấy tờ tạm giữ được bảo quản theo thủ tục chung về bảo quản tài sản thi hành án. Như vậy pháp luật quy định có nhiều hình thức bảo quản tài sản taj giữ để Chấp hành viên có nhiều phương án lựa chọn. Tuy nhiên, Chấp hành viên cần lưu ý về mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự để lựa chọn hình thức bảo quản một cách chính xác và phù hợp. Theo đó, trong trường hợp này thì Chấp hành viên không nên áp dụng hình thức “giao tài sản cho người phải thi hành án, người thân thích của người phải thi hành án như vợ, chồng, con, ông, bà, cha, mẹ, bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em của đương sự, của vợ hoặc chồng của đương sự hoặc người đang sử dụng bảo quản tài sản”. Vì như vậy, có thể dẫn đến việc tài sản sẽ bị tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng và vô hình trung biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự sẽ không còn hiệu lực, hiệu quả trên thực tế. Một điểm cần lưu ý nữa là người được giao bảo quản tài sản phải là người có điều kiện bảo quản tài sản, đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn kỹ thuật cơ bản để tài sản, giấy tờ đã bị tạm giữ được bảo quản một cách tốt nhất, an toàn nhất, tránh bị mất mát, hư hỏng, xuống cấp hoặc bị cháy, nổ trong thời gian bị tạm giữ. Việc bảo toàn giá trị tài sản, giấy tờ bị tạm giữ sẽ góp phần bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án.

2.2.3. Bảo đảm quyền và lợi ích của người được thi hành án bằng biện pháp tạm dừng đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản

Việc áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản được xuất phát từ thực tiễn công tác thi hành án dân sự, đã được Chấp hành viên vận dụng thực hiện trước khi được chính thức quy định trong Luật THADS. Theo đó, trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu phát hiện người phải thi hành án có tài sản và họ có các hành vi thực hiện chuyển

quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản thì Chấp hành viên có văn bản gửi các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền như Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân xã, phường nơi có tài sản, Phòng Công chứng, Phòng cảnh sát giao thông… đề nghị phối hợp trong việc ngăn chặn việc đương sự tẩu tán tài sản. Tuy nhiên, do không được quy định một cách chính thức trong luật nên chưa có cơ sở pháp lý, việc áp dụng và hiệu lực pháp lý của văn bản mà Chấp hành viên ban hành không cao, trong nhiều trường hợp đã không được các cơ quan có thẩm quyền chấp nhận dẫn đến việc người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh thi hành án. Vì vậy, việc luật hóa biện pháp tạm dừng đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản là một nhu cầu cấp thiết, phù hợp với thực tiễn thi hành án dân sự của nước ta. Không chỉ được luật định, các quy định về biện pháp tạm dừng đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản qua từng thời kỳ được điều chỉnh hoàn thiện hơn theo hướng tăng cường hiệu quả thi hành án qua đó bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Cụ thể:

Về đối tượng áp dụng

Luật THADS năm 2014 đã mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng biện pháp tạm dừng đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản so với Luật THADS năm 2008. Ngoài những tài sản thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án, còn bao gồm những tài sản chung của người phải thi hành án với người khác. Việc mở rộng đối tượng áp dụng đã góp phần tăng khả năng bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án.

Về thời hạn tạm dừng đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản

Luật THADS năm 2014 đã có những thay đổi đáng kể trong cách tính thời hạn áp dụng biện pháp tạm dừng đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản so với Luật THADS năm 2008. Cụ thể: về thời hạn, Luật 2008 quy định là 15 ngày còn Luật 2014 quy định là 10 ngày; về thời điểm bắt đầu tính thời

hạn cũng có sự điều chỉnh theo hướng phù hợp với thực tiễn. Theo đó, Luật THADS năm 2008 bắt đầu tính thời hạn kể từ ngày ra quyết định áp dụng biện pháp tạm dừng đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản. Hết thời hạn nêu trên, Chấp hành viên phải ra quyết định thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Rõ ràng việc quy định mốc tính thời hạn như trong Luật THADS năm 2008 là không hợp lý. Để có đủ cơ sở khi đưa ra quyết định xử lý tài sản đang áp dụng biện pháp bảo đảm tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, Chấp hành viên phải tự mình xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản theo quy định của pháp luật. Thời gian thực hiện thủ tục xác minh quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản trong nhiều trường hợp thực tế còn dài hơn thời hạn được áp dụng biện phá pbảo đảm tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Và khi hết thời hạn luật định mà việc xác minh quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản chưa hoàn thành thì Chấp hành viên buộc phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng. Điều này làm hạn chế điều kiện áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án này, qua đó hạn chế khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Khắc phục sự thiếu hợp lý trong quy định tính thời hạn này, Luật THADS năm 2014 đã quy định thời điểm bắt đầu tính thời hạn là kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án. Với quy định mới, toàn bộ thời gian tiến hành xác minh quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản không bị tính vào thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Như vậy, xét về góc độ thực tiễn áp dụng luật hay xét về góc độ khoa học pháp lý thì quy định này đã

thể hiện một sự thay đổi tích cực, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

Về căn cứ áp dụng: Theo quy định của Luật THADS năm 2014 thì một trong các điều kiện để áp dụng biện pháp bảo đảm tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản là “có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh việc thi hành án” của đương sự. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, để xác định được người phải thi hành án có thực hiện hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản để trốn tránh việc thi hành án hay không là một việc hết sức khó khăn và không có tiêu chí rõ ràng, cụ thể, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay ở nước ta vẫn chưa có cơ chế kiểm soát, cung cấp thông tin về tình trạng tài sản, đăng ký tài sản. Vì vậy, trong tuyệt đại đa số các trường hợp, khi phát hiện được tài sản của người phải thi hành án thuộc đối tượng áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản thì để bảo đảm cho việc thi hành án, Chấp hành viên đều tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự có thể ra ngay quyết định áp dụng biện pháp này mà không cần quan tâm đến việc trên thực tế người phải thi hành án có thực sự mong muốn thực hiện hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản để trốn tránh việc thi hành án hay không. Đây là lựa chọn mang tính thận trọng, an toàn của Chấp hành viên nhằm tránh các khiếu nại, các hậu quả tiêu cực phát sinh và yêu cầu của người được thi hành án về bồi thường thiệt hại do Chấp hành viên thiếu trách nhiệm khi người phải thi hành án cố tình thực hiện các hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh việc thi hành án.

Từ những nội dung đã phân tích ở trên cho thấy các quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn

thi hành tương đối đầy đủ, ngày càng hoàn thiện. Việc quy định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo hướng mở rộng quyền chủ động yêu cầu của đương sự và quyền tự quyết định của Chấp hành viên đã giúp cho đương sự bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong thi hành án và giúp cho Chấp hành viên có thêm nhiều giải pháp để tổ chức thi hành án có hiệu quả, xử lý nhanh chóng những tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án, qua đó bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

2.3. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự là quá trình thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của các đương sự đã được xác định trong bản án, quyết định đưa ra thi hành. Do vậy, việc tự nguyện thi hành của các đương sự được coi là biện pháp quan trong nhất trong hoạt động thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người phải thi hành án có đầy đủ điều kiện thi hành án nhưng vẫn không tự nguyện thi hành án trong thời hạn cơ quan thi hành án ấn định, tìm cách trì hoãn, trốn tránh việc thi hành án. Trong trường hợp này, để đảm vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, cơ quan thi hành án sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế.

Với đặc điểm “sử dụng quyền lực nhà nước”, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trong thi hành án là giải pháp có tính hiệu quả cao nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án, bảo đảm được hiệu lực của bản án, quyết định, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trước thái độ không chấp hành của người phải thi hành án và quan trọng nhất, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Ngoài ra, biện pháp cưỡng chế thi hành án còn có ý nghĩa trong việc răn đe, giáo dục ý thức pháp luật của công dân, nâng cao công tác tuyên truyền pháp luật trong thi

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí