Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Và Nâng Cao Hiệu Quả Thi Hành Pháp Luật Về Xác Minh Điều Kiện Thi Hành Án Dân Sự

Đến ngày 3/9/2014, ông Trần Hoàng Duyên, Bí thư Huyện ủy Phước Long, có thông báo chỉ đạo gia hạn THA đối với bà Oanh để chờ giám đốc thẩm. Điều đáng nói là trước khi có văn bản chỉ đạo của ông Duyên, ngày 15/8/2014, Tòa án nhân dân Tối cao đã có thông báo giải quyết đơn kháng nghị của bà Oanh với nội dung không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.

Theo tác giả, bản án tranh chấp chia thừa kế đã có hiệu lực thi hành nhưng vì văn bản chỉ đạo “chờ giám đốc thẩm” của bí thư huyện ủy khiến việc THA cứ cù nhầy, người được THA phải sống cảnh vô gia cư [60].

Trên đây chỉ là một trong vô vàn các cách thức can thiệp khác nhau của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền vào hoạt động THA.

Ngoài ra, trong quá trình THA nói chung và quá trình xác minh điều kiện THADS nói riêng, người phải THA và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan thường tỏ ra thờ ơ, thậm chí còn có những biểu hiện chống đối quyết liệt nhưng CHV chỉ có thể xử lý hành vi này thông qua quyền lực của cơ quan công an hoặc của chính quyền địa phương. Chẳng hạn như NCS đã phân tích ở mục 3.1. của luận án về xác minh điều kiện THADS đối với trường hợp CHV muốn thực hiện việc xác minh điều kiện THA để giao nhà và các tài sản gắn liền nhưng người phải THA không cho CHV vào nhà để xác minh hiện trạng tài sản, trong khi đó, quy định pháp luật về việc cho phép CHV huy động lực lượng công an phối hợp để yêu cầu người phải THA cho CHV vào nhà xác minh lại thiếu rò ràng khiến CHV gặp khó khăn rất lớn trong công tác này. Hoặc là trường hợp người phải THA cất giấu tiền, giấy tờ có giá, tài sản ở trong két sắt, trong tủ nhưng CHV không được quyền yêu cầu mở tủ, mở két sắt để xác minh tài sản nên cũng gây khó khăn cho quá trình xác định tài sản của người phải THA.

Thứ chín, cơ chế quản lý tài sản của người phải THA vẫn còn manh mún, thiếu minh bạch

Một trong những đối tượng chủ yếu của hoạt động thi hành án dân sự là các tài sản có đăng ký sở hữu, sử dụng hoặc các tài khoản của người phải THA. Tuy nhiên, như NCS đã phân tích ở mục 3.1.2 của luận án, các sổ đăng ký quyền sở hữu, sử dụng được quản lý hết sức manh mún. Chẳng hạn như sổ đăng ký đất đai của cá nhân thì cấp quản lý là ở cấp huyện; đối với xe ô tô, máy kéo, rơ moóc, sơ mi rơ moóc; xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175cm3 trở lên hoặc xe có quyết định tịch thu của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền và các loại xe có kết cấu tương tự xe nêu trên của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, kể cả xe quân đội làm kinh tế có trụ sở hoặc cư trú tại địa phương thì cơ quan quản lý là Phòng cảnh sát giao thông thuộc công an cấp tỉnh; đối với tàu biển thì cơ quan quản lý là Cục Hàng hải Việt Nam hoặc các Chi cục hàng hải, Cảng vụ hàng hải. Bên cạnh đó, đối với tài khoản của người phải THA cũng thuộc quyền quản lý của Ngân hàng nơi có tài khoản của người phải THA mà không có dữ liệu chung về tài khoản. Thực tế, người phải THA có thể sở hữu, sử dụng tài sản ở địa phương ngoài địa bàn cư trú và có thể mở tài khoản ở bất kỳ Ngân hàng nào, thậm chí ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Trong khi đó, CHV chỉ có nghĩa vụ và trách nhiệm xác minh điều kiện THADS tại địa bàn cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú. Đây là một kẽ hở để người phải THA tận dụng nhằm che dấu điều kiện THADS của mình.

Tiểu kết chương 3

Chương 3 của luận án đã khái quát hoá thực trạng pháp luật Việt Nam về xác minh điều kiện THADS. Trên cơ sở nền tảng lý luận được xây dựng ở Chương 2, Chương 3 đã mô tả và bình luận các quy định của pháp luật Việt Nam về chủ thể xác minh, nội dung xác minh và trình tự, thủ tục xác minh điều kiện THADS, đồng thời làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về xác minh điều kiện THADS bằng việc phân tích một số vụ việc được giải quyết trong thực tiễn. Từ các phân tích đó cho thấy những bất cập, hạn chế của các quy định về xác minh điều kiện THADS. Cụ thể, chủ thể xác minh điều kiện THADS còn chưa phù hợp với nền tảng lý luận đã được xây dựng. Với tư cách là chủ thể được trao quyền lực nhà nước trong hoạt động xác minh điều kiện THA, các chủ thể xác minh điều kiện THADS theo pháp luật THADS hiện hành chưa thực sự được trao quyền lực đó. Điều này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xác minh điều kiện THADS.

Bên cạnh đó, đối tượng của hoạt động xác minh điều kiện THADS là các tài sản, thu nhập nên vấn đề quản lý tài sản, thu nhập sẽ có tác động lớn đến hiệu quả của công tác xác minh điều kiện THADS. Trong khi đó, pháp luật về đăng ký tài sản, quản lý tài khoản của các tổ chức, cá nhân… vẫn còn manh mún và chưa hoàn thiện khiến cho hoạt động xác minh điều kiện THADS chưa hiệu quả. Ngoài ra, pháp luật về xác minh điều kiện THADS còn vướng mắc, bất cập trong các quy định như: trách nhiệm kê khai thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải THA; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm giữ thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; uỷ thác xác minh điều kiện THADS; uỷ quyền xác minh điều kiện THADS; thời hạn tiến hành xác minh điều kiện THADS; bảo đảm việc xác minh hiện trạng tài sản của CHV; tính độc lập của CHV trong việc xác minh điều kiện THADS.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

Dựa trên những đánh giá, nhận định về các bất cập chủ yếu của pháp luật về xác minh điều kiện THADS ở Việt Nam, Chương 3 cũng đã phân tích một số nguyên nhân của những bất cập, trong đó, không chỉ có những nguyên nhân khách quan mà còn bao gồm cả những nguyên nhân chủ quan như kỹ thuật lập pháp, trình độ của đội ngũ CHV, tổ chức thực hiện pháp luật… dẫn đến những hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động xác minh điều kiện THADS.

Chương 4

Xác minh điều kiện thi hành án dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành - 17

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM


4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự

4.1.1. Hoàn thiện pháp luật xác minh điều kiện thi hành án phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người trong việc tổ chức và vận hành xã hội. Những ý tưởng về Nhà nước pháp quyền đã có từ lâu trong lịch sử nhân loại và được các nhà khoa học chính trị, luật học, xã hội học, sử học nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau. Nhà nước pháp quyền được các nhà luật học của nhiều nước định nghĩa bằng những ngôn ngữ và diễn đạt khác nhau, song về bản chất có thể tóm lại như sau: “Nhà nước pháp quyền là Nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý”. Như vậy, nếu phân tích đầy đủ khái niệm này từ góc độ pháp luật, có thể thấy rằng, một Nhà nước pháp quyền phải là Nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật trong mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, công chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép được coi như một trong những nguyên tắc chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền. Khía cạnh khác của Nhà nước pháp quyền, hầu như đối lập với yêu cầu kiểm soát và kiềm chế đối với bộ máy nhà nước là yêu cầu về các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Ở khía cạnh này, Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ phải bảo đảm bằng pháp luật các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Những công chức và cơ quan thực thi pháp luật không được có những hành vi hoặc quyết định hạn chế hay tước quyền tự do, dân chủ và tiếp cận công lý của người dân mà không dựa trên những cơ sở chắc chắn của pháp luật. Công dân được quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm được coi là nguyên tắc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội trong Nhà nước pháp quyền.

Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước đây, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay đã có rất nhiều đặc điểm của một Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, mãi đến những năm thực hiện công cuộc đổi

mới, Nhà nước pháp quyền XHCN mới trở thành một khái niệm chính trị - pháp lý chính thức trong xã hội ta và để từ đó được hiện thực hoá trong sự nghiệp đổi mới và trở thành một trong những nền tảng của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Đồng thời, lần đầu tiên trong Hiến pháp 2013 tại khoản 1 Điều 2 đã ghi rò: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” [72, Điều 2]. Đây chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Thực tiễn của công cuộc đổi mới những năm qua ngày càng khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng giao lưu quốc tế và hội nhập quốc tế của nước ta. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng của một hệ thống chính trị - pháp lý đặc thù của thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, nên nhiều cấu trúc, định chế, đặc biệt là hệ thống pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Pháp luật về xác minh điều kiện THA trong nhà nước pháp quyền phải được xây dựng với chất lượng cao, thể hiện đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với thực tế khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nguyên tắc chủ quyền nhân dân không những cần được thể hiện rò trong các văn bản pháp luật quy định về xác minh điều kiện THADS mà còn phải được cụ thể hoá bằng các cơ chế pháp lý hữu hiệu để đảm bảo trên thực tế sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng và các công dân trong hoạt động THA, đảm bảo thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, góp phần giữ gìn kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân khi bị xâm hại. Pháp luật THADS nói chung và pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng phải trở thành công cụ sắc bén trong việc bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của con người và của công dân, là những giá trị xã hội cao nhất trong Nhà nước pháp quyền. Như vậy, xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, việc hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Một là, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải mang tính ổn định.

Một trong những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành nói chung, pháp luật về THADS và xác minh điều kiện THA nói riêng đó là pháp luật thường xuyên thay đổi. Thực tế này là hệ quả tất yếu của việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Trong quá trình thể chế hoá các yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, có không ít các quan điểm e ngại với những vấn đề mới, chỉ chấp nhận những vấn đề đã chín muồi, có sự đồng thuận cao, do đó khó tạo ra những đột phá và từ đó, có sự ổn định cần thiết. Thực tế này có nguyên nhân ở sự thiếu vắng những tầm nhìn và quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể và từ đó, của cả hệ thống pháp luật. Pháp luật về THADS thời gian qua thường xuyên có sự thay đổi, cụ thể: từ Pháp lệnh THADS 1993, đến Pháp lệnh THADS năm 2004, Luật THADS năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS năm 2014. Pháp luật thường xuyên bị thay đổi, dẫn đến những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan hệ kinh tế. Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng và pháp luật về THADS nói chung phải đảm bảo yêu cầu các quy định phải mang tính ổn định.

Hai là, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải đảm bảo tính nhất quán, tính hệ thống.

Tính hệ thống của pháp luật nước ta còn nhiều hạn chế. Các văn bản luật, các văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, “qua kiểm tra 1.506 văn bản pháp luật đã ban hành của cấp bộ và địa phương trong năm 2007, phát hiện 320 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Năm 2008, kiểm tra 1.968 văn bản thì phát hiện 490 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật (trong đó có 93 văn bản cấp bộ và 397 văn bản của địa phương). Như vậy, khoảng từ 20-25% số văn bản được kiểm tra có dấu hiệu vi phạm” [61].

Chính vì vậy, hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng và pháp luật về THADS nói chung phải đảm bảo tính nhất quán, tính hệ thống. Trước tiên, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải bảo đảm sự nhất quán. Điều này thể hiện ở chỗ các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực, hoặc trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đều thống nhất trong việc xác lập mô hình hành vi. Tránh tình trạng văn bản luật thì cho phép nhưng xuống đến văn bản hướng dẫn thi hành luật lại không

cho phép, đồng thời, văn bản luật và văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn luật đều phải phù hợp với Hiến pháp. Mặt khác, hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA cần đặt trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống pháp luật. Điều này là hết sức cần thiết, bởi lẽ dù pháp luật Việt Nam được chia ra thành các ngành luật nhưng trên thực tế, xã hội là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nên giữa các quy phạm pháp luật luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, dù thuộc về các ngành luật khác nhau. Tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật còn được xem xét trong mối quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành, luật nội dung và luật hình thức… Bởi vậy, việc xem xét về tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải có một cái nhìn bao quát, toàn diện ở nhiều góc độ, nhiều cấp độ khác nhau. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải loại bỏ mâu thuẫn, trùng lặp hay chồng chéo ngay trong bản thân hệ thống, trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật với nhau, xác định ranh giới giữa các ngành luật và định ra một hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ. Nếu một hệ thống pháp luật không thống nhất, giữa các bộ phận của nó chứa đựng mâu thuẫn, chồng chéo, thì hệ thống ấy không thể tạo ra sự điều chỉnh pháp luật một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả. Do đó, hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA phải được đặt trong tổng thể hệ thống pháp luật, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung; giữa pháp luật THA với các lĩnh vực pháp luật có liên quan... giữa chúng phải có sự phối hợp, bổ sung cho nhau trong điều chỉnh các quan hệ xã hội mà không có sự chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí làm vô hiệu lẫn nhau.

Ba là, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải đảm bảo tính minh bạch.

Tính minh bạch của hệ thống pháp luật Việt Nam còn hạn chế, nhất là nhìn nhận từ tính minh xác, tính minh định. Công báo của Trung ương và các tỉnh đã đăng tải khá đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương tiện thông tin đại chúng, cả hệ thống chính trị và xã hội đã có nhiều cố gắng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật. Như vậy, xét ở khía cạnh khả năng tiếp cận thì tính minh bạch của hệ thống pháp luật được bảo đảm tốt hơn. Tuy nhiên, xét ở tính minh xác, tính minh định thì hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu tính minh bạch. Chính hạn chế này khiến các chủ thể thực sự lúng túng khi thực hiện hay áp dụng pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật vẫn chưa tạo được cho công chúng những tiếp cận và tham gia cần thiết. Các ý kiến của chuyên gia, của các nhà khoa học nói riêng và của công chúng nói chung chưa thực sự được cân nhắc và tiếp thu. Mặt

khác, tính tích cực công dân tham gia xây dựng pháp luật nhìn chung chưa cao. Tuy nhiên, theo phân tích ở trên, đối với hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền XHCN thì không thể thiếu được tính minh bạch. Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA cũng phải đảm bảo tính minh bạch. Theo đó, pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng và pháp luật về THADS nói chung khi xây dựng, hoàn thiện phải minh bạch từ giai đoạn lập chương trình xây dựng, đến giai đoạn soạn thảo, giai đoạn thẩm tra, thẩm định dự thảo và giai đoạn công bố. Pháp luật về xác minh điều kiện THA được xây dựng phải đảm bảo tính rò ràng, rành mạch, dễ hiểu, đồng thời phải công khai cho mọi người cùng biết và nắm bắt được các quyền và nghĩa vụ của mình để tuân thủ nghiêm túc và thực hiện theo quy định của pháp luật.

Bốn là, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải đảm bảo sự công bằng xã hội, bình đẳng xã hội.

Hệ thống pháp luật phải đảm bảo sự công bằng xã hội, bình đẳng xã hội là một trong những tiêu chí trong hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền XHCN. Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thì hệ thống pháp luật của nước ta cần được tiếp tục hoàn thiện, trong đó có pháp luật về THADS nói chung và pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng. Theo đó, các quy định pháp luật về xác minh điều kiện THA không chỉ bảo đảm cá nhân, tổ chức cùng tồn tại trong sự hoà hợp và tự do mà cả trong sự bình đẳng, công bằng xã hội, không sự phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, giới tính, thành phần xã hội, địa vị xã hội...

4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA phải xuất phát từ thực tiễn THA dân sự

Xác minh điều kiện THA là một thủ tục mà CHV phải thực hiện trong quá trình tổ chức THADS. Do vậy, việc đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA cần dựa trên những đặc điểm của hoạt động THADS ở Việt Nam. Như vậy, mới đảm bảo cho việc điều chỉnh pháp luật về xác minh điều kiện THA “không nằm ngoài” các quan hệ mà nó điều chỉnh.

THADS là một trong những hoạt động quan trọng của nhà nước nhằm đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực ra thi hành trên thực tế. Điều 106 Hiến pháp 2013 quy định: “Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Hoạt động THADS có vai trò, vị trí rất quan trọng trong việc bảo

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/07/2022