Nguyên Tắc Của Bảo Đảm Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Được Thi Hành Án Dân Sự

Chương 2

NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI ĐƯỢC THI HÀNH ÁN

2.1. Nguyên tắc của bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án dân sự

- Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự: Luật thi hành án sửa đổi bổ sung có quy định “Người được thi hành án có các quyền yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định trong Luật này” [20]. Như vậy, pháp luật đã trao cho người được thi hành án một công cụ hữu hiệu để tự bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mình. Ngoài quyền yêu cầu thi hành án, người được thi hành án còn có quyền yêu cầu đình chỉ thi hành án, áp dụng các biện pháp bảo đảm hoặc cưỡng chế thi hành án. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm quyền lợi cho họ bởi trong một số trường hợp, quá trình THADS có thể không đúng với nội dung của phán quyết về vụ việc, hoặc các bên liên quan khác cố tình không tuân thủ phán quyết. Chủ động tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình là biện pháp hữu hiệu, thiết thực nhất đối với người được thi hành án.

- Nguyên tắc thỏa thuận trong THADS: Tính chất đặc thù của các quan hệ dân sự là bình đẳng và tự thỏa thuận, do đó việc luật thi hành án dân sự ghi nhận quyền thỏa thuận giữa các bên vừa thể hiện đúng bản chất của mối quan hệ vừa tôn trọng ý chí giữa các bên. Theo đó, đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận [18]. Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đến việc thi hành án là do

cơ quan có thẩm quyền quy định, tuy nhiên việc triển khai thi hành án thế nào thì pháp luật lại tôn trọng ý chí của đương sự. Yếu tố thỏa thuận giúp cho việc thi hành án dễ dàng, phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn của các bên, qua đó quyền lợi của người được thi hành án được bảo đảm tốt hơn.

- Nguyên tắc tự nguyện và cưỡng chế thi hành án: Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án, tuy nhiên trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật [20]. Với quy định này, pháp luật đã hạn chế tối đa khả năng bản án dân sự không được thực thi trên thực tế, qua đó bảo đảm quyền lợi cho người được thi hành án.

- Nguyên tắc bồi thường thiệt hại, trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan THADS và chấp hành viên. Mọi cá nhân, tổ chức có liên quan phải phối hợp với cơ quan THADS trong quá trình thi hành án, trường hợp không chấp hành, phối hợp mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Quy định này, một lần nữa ràng buộc trách nhiệm của mọi cá nhân tổ chức trong việc tôn trọng quá trình thi hành án nói chung, và tôn trọng quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án nói riêng.

- Nguyên tắc giám sát, kiểm sát hoạt động trong THADS: Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước, được phép sử dụng quyền lực nhà nước để bản án được thực thi trong thực tiễn. Do đó, việc quy định chế độ giám sát hoạt động thi hành án là rất quan trọng, đảm bảo cho quá trình thi hành án diễn ra minh bạch, kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật và không có sự lạm quyền gây sai phạm. Do đó, người được thi hành án có thể yên tâm về các quyền lợi hợp pháp của mình được ghi nhận trong bản án sẽ được bảo đảm trọn vẹn trong quá trình thi hành án.

2.2. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án bằng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có thể hiểu là các cách thức làm cho việc thi hành án dân sự được thực hiện một cách chắc chắn và đầy đủ nhằm bảo đảm tính hiệu lực của bản án, quyết định được tổ chức thi hành, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lý mang tính quyền lực nhà nước, do đó trong trường hợp cần thiết thì chỉ cần có căn cứ cho rằng tài sản của người phải thi hành án (do người phải thi hành án trực tiếp quản lý hoặc người thứ ba đang quản lý, sử dụng) có nguy cơ bị tẩu tán, giảm sút giá trị là cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng biện pháp này.

Như vậy, có thể định nghĩa về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự như sau: Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lý được Chấp hành viên áp dụng theo một trình tự, thủ tục luật định trong quá trình tổ chức thực hiện việc thi hành án, đặt tài sản của người phải thi hành án trong tình trạng bị hạn chế hoặc tạm thời bị cấm sử dụng, định đoạt, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng nhằm bảo toàn điều kiện thi hành án, ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện việc tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng về tài sản trốn tránh việc thi hành án, làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án [24, tr.21].

Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành - 4

Như vậy, các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có mục đích chính là để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

2.2.1. Bảo đảm bằng biện pháp Phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi

giữ

Biện pháp Phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành án lần

đầu được quy định tại Pháp lệnh thi hành án dân sự số 13/2004/PL- UBTVQH11 ngày 14/01/2014 với vai trò là một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Kế thừa và phát triển từ các quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004, biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản tiếp tục được Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi năm 2014 quy định là một trong 3 biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự với cùng một mục đích: tác động đến tài khoản của người phải thi hành án, thông qua đó kiểm soát, ngăn chặn được mọi hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản của đương sự nhằm bảo đảm việc thi hành án được thuận lợi, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Tuy nhiên, qua từng thời kỳ, biện pháp phong tỏa tài khoản đã được pháp luật điều chỉnh quy định để phù hợp với yêu cầu thực tiễn cũng như bản chất của nó.

Trong Pháp lệnh THADS năm 2004, phong tỏa tài khoản, tài sản được quy định là một trong sáu biện pháp cưỡng chế thi hành án, điều này được đánh giá là không phù hợp với bản chất của biện pháp cũng như gây ra bất cập trong thực tiễn tổ chức thực hiện. Pháp lệnh THADS năm 2004 đã thể hiện rõ "Khi có căn cứ cho rằng người phải thi hành án có dấu hiệu tẩu tán tiền trong tài khoản thì Chấp hành viên có thể ra quyết định phong tỏa tài khoản". Rõ ràng, biện pháp này mới chỉ hạn chế đến quyền kiểm soát tài khoản của người phải thi hành án, ngăn chặn việc người phải thi hành án tẩu tán tiền trong tài khoản mà chưa quyết định đến việc xử lý tiền trong tài khoản. Để có thể xử lý tài sản của người phải thi hành án, sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế phong tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng một biện pháp cưỡng chế khác, biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án (Khoản 1 Điều 39 Pháp lệnh THADS năm 2004). Như vậy, về mặt bản chất phong tỏa tài khoản chỉ là bước đệm, mang tính chất hỗ trợ cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản [15, tr.23].

Việc quy định biện pháp phong tỏa tài khoản là biện pháp cưỡng chế thi hành án vừa không phản ánh đúng bản chất, vừa gây ra bất cập trong quy trình tổ chức thi hành án, đó là: người phải thi hành án bị cưỡng chế hai lần đối với một tài sản để thi hành án.

Để khắc phục những bất cập, hạn chế nêu trên, Luật THADS 2008 và Luật sửa đổi bổ sung năm 2014 đã quy định phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án là một trong những biện pháp bảo đảm thi hành án. Ngoài ra, trong điều kiện các giao dịch, thanh toán bằng tài khoản ngày càng phát triển phổ biến, Luật cũng đã đưa ra những quy định nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, cụ thể:

Về đối tượng bị áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản gửi giữ

Theo Luật THADS 2008, biện pháp phong tỏa tài khoản được áp dụng đối với tài khoản của người phải thi hành án khi có đủ căn cứ xác định được người phải thi hành án có tài khoản tại ngân hàng, kho bạc nhà nước hoặc tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính khác. Như vậy, đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự này chính là tài khoản đứng tên người phải thi hành án. Luật sửa đổi bổ sung 2014 đã mở rộng đối tượng áp dụng biện pháp này, ngoài tài khoản còn có tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án. Việc mở rộng đối tượng áp dụng biện pháp phong tỏa đã tạo điều kiện tốt hơn trong việc bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án.

Về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản gửi

giữ

Điều 66 Luật THADS quy định: “Chấp hành viên có quyền tự mình

hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án”. Như vậy, pháp luật về THADS đã trang bị cho người được thi hành án thêm một "vũ khí" hữu hiệu để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi ghi nhận quyền yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa tài

khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án. Trong nhiều trường hợp thực tế, Chấp hành viên không thể nắm được thông tin về tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án hoặc nắm được nhưng vì lý do nào đó mà không lựa chọn áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ dẫn đến việc người phải thi hành án thực hiện hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ và việc thi hành án không đạt được kết quả. Vì vậy, Luật THADS đã quy định theo hướng giúp cho đương sự được chủ động thực hiện việc cung cấp thông tin, đề nghị với Chấp hành viên kịp thời thực hiện việc phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ. Khi nhận được đề nghị của đương sự, Chấp hành viên phải thực hiện việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án theo yêu cầu, trường hợp không ra quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ mà gây ra thiệt hại thì Chấp hành viên phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Luật THADS cũng có quy định để tránh trường hợp đương sự tùy tiện yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm. Theo đó, đương sự yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình.Trường hợp người đó đưa ra yêu cầu để áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ không đúng mà gây ra thiệt hại cho người bị phong tỏa tài khoản hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường. Do đó, văn bản đề nghị phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án phải bảo đảm sự chính xác về các thông tin của tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ sẽ bị phong tỏa cũng như cần lường trước các hậu quả phát sinh nếu như có sự nhầm lẫn dẫn đến thiệt hại cho người thứ ba.

Về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp phong tỏa

Luật thi hành án dân dự sửa đổi năm 2014 đã quy định chặt chẽ, chi

Thu thập thông tin về tài khoản, tài sản gửi giữ

tiết, cụ thể và đầy đủ hơn về trình tự, thủ tục phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án nhằm bảo đảm tốt hơn cho quyền lợi của người được thi hành án. Theo đó, trình tự thủ tục áp dụng biện pháp phong tỏa được thực hiện qua bốn bước như sau:


Ra quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa


Giao quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa


Thực hiện quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa


Thực tiễn áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản gửi giữ trong thời gian qua cho thấy một số kinh nghiệm giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án tốt hơn. Cụ thể:

- Chấp hành viên có thể thu thập thông tin về tài khoản, tài sản gửi giữ của người phải thi hành án từ nhiều nguồn khác nhau: có thể do kết quả xác minh, thu thập trực tiếp của Chấp hành viên; do người được thi hành án cung cấp bằng văn bản; hoặc phát hành văn bản yêu cầu cung cấp thông tin đối với các cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án mở tài khoản, gửi giữ tài sản;… Trong đấy, việc xác minh trực tiếp đạt hiệu quả cao hơn so với việc gửi văn bản yêu cầu cung cấp thông tin tài khoản, tài sản gửi giữ. Việc gửi văn bản yêu cầu cung cấp thông tin làm mất nhiều thời gian, thông tin thu được

nhiều khi không chính xác, kịp thời tạo cơ hội cho người phải thi hành án kịp thực hiện các giao dịch để tẩu tán tiền trong tài khoản, tài sản gửi giữ. Trong khi đó, việc xác minh trực tiếp được Chấp hành viên thực hiện tại chỗ, kiểm tra ngay được hiện trạng thực tế, thông tin về tài khoản, tài sản gửi giữ của đương sự được cung cấp một cách chính xác, kịp thời, làm cơ sở để Chấp hành viên ban hành quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản gửi giữ một cách chính xác và hiệu quả. Qua đó, bảo đảm thi hành án tốt hơn, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

- Trong quá trình xác minh tài khoản, tài sản gửi giữ của người phải thi hành án, Chấp hành viên cần thực hiện ngay việc lập biên bản với đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng nơi người phải thi hành án có tài khoản hoặc tổ chức nhận trông giữ tài sản. Trong nội dung biên bản cần nêu rõ số dư trong tài khoản, giá trị của tài sản gửi giữ và khẳng định yêu cầu tổ chức đó phải giữ nguyên hiện trạng, không được thực hiện các giao dịch thông qua tài khoản nhằm thanh toán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án cho người khác trong khi chờ Chấp hành viên ban hành quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án.

- Ra quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ trong trường hợp đặc biệt. Theo đó, trong trường hợp nhận thấy nguy cơ tài sản bảo đảm thi hành án có nguy cơ cao bị tẩu tán, chấp hành viên có thể lập biên bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án phong tỏa ngay tài khoản, tài sản đó; Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên sẽ ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản. Đây là một quy định mới trong Luật THADS sửa đổi 2014, hạn chế tối đa tình trạng tẩu tán tài sản trong điều kiện các giao dịch ngân hàng điện tử đang ngày càng phổ biến và diễn ra nhanh chóng, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án.

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí