ban chứng khoán Nhà nước. Thời gian qua, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã nỗ lực tối đa trong việc thẩm định chặt chẽ các hồ sơ đăng ký chào bán, nhằm bảo vệ được phần nào nhà đầu tư. Song nếu phương án phát hành của doanh nghiệp được cổ đông thông qua đúng luật và doanh nghiệp có đủ hồ sơ hợp pháp thì Ủy ban Chứng khoán Nhà nước căn cứ vào quy định pháp luật phải thực hiện cấp giấy chứng nhận chào bán ra công chúng mà không thể từ chối, mặc dù thấy phương án phát hành có thể ảnh hưởng đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và nhà đầu tư như là tăng vốn chủ yếu để trả nợ, hoặc kế hoạch sử dụng vốn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
Hai là, đối với việc thay đổi phương án sử dụng vốn sau khi doanh nghiệp đã thực hiện xong việc chào bán chứng khoán ra công chúng. Đơn cử trường hợp của FLC. Trong tờ trình phương án phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ ngày 15-4- 2013, ban đầu, công ty này dự kiến tăng vốn để đầu tư cho hai dự án lớn là nhà máy sản xuất bao bì carton ở Vĩnh Phúc (300 tỷ đồng) và dự án sân golf - nghỉ dưỡng Hồ Cẩm Quỳ (471,8 tỷ đồng). Tuy nhiên, ngay sau ngày hoàn thành đợt chào bán không lâu (7-4-2014), trong báo cáo gửi Ủy ban Chứng khoán (UBCK) ngày 16-5- 2014, FLC lại thay đổi phương án sử dụng vốn sang đầu tư xây dựng công trình hỗn hợp thuộc khu đô thị mới tại Thanh Hóa (dự án sân golf 300 tỷ, khu dịch vụ công cộng 100 tỷ, dự án khu nghỉ dưỡng 400 tỷ, dự án biệt thự 200 tỷ, dự án khách sạn Sầm Sơn 500 tỷ) và bổ sung vốn lưu động (43,6 tỷ). Việc thay đổi phương án sử dụng vốn một cách nhanh chóng, khiến nhà đầu tư bị đặt vào tình trạng sự đã rồi, phải chấp nhận mặc dù phương án thay đổi đầu tư của công ty có độ rủi ro mất vốn cao, điều này đặt câu hỏi về về mục đích huy động vốn thực sự của các công ty. Điều này cũng sẽ tạo tiền lệ xấu cho hoạt động tăng vốn của các doanh nghiệp, làm giảm độ minh bạch trên thị trường, Do vậy, UBCK cần siết chặt quản lý hơn nữa đối với các trường hợp vi phạm mục tiêu huy động vốn ban đầu.
Một vấn đề nữa là về khái niệm chào bán chứng khoán ra công chúng, thuật ngữ này trong Luật chứng khoán rất cần tiếp tục làm rõ nhằm tạo điều kiện xác định nội dung chính xác, chính thức của hoạt động này. Luật chứng khoán đưa ra khái niệm “Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán thông
qua phương tiện thông tin đại chúng kể cả Internet hoặc chào bán chứng khoán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên…” [29, Điều 6, Khoản 12] rất không rõ ràng. Xác định tiêu chí “chào bán cho từ 100 nhà đầu tư” có thể được hiểu tổ chức phát hành đã liên hệ và xác nhận hành vi chào bán đã được ít nhất 100 nhà đầu tư biết tới hay cần phải có sự xác nhận mua chứng khoán của ít nhất 100 nhà đầu tư…? Việc xác định có hay không hoạt động chào bán ra công chúng có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng bởi lẽ đây sẽ là cơ sở để xác nhận hoạt động phát hành đại chúng của tổ chức phát hành có thành công hay không. Nếu không thành công, trách nhiệm vật chất của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư đã đặt mua chứng khoán là chắc chắn; nếu thành công, cơ chế báo cáo và công bố thông tin là bắt buộc để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư hiện hữu [42].
(ii) Về công tác thanh tra, kiểm tra
Tuy đã có nhiều những kết quả đáng ghi nhận, song các quy định hiện hành về thanh tra chứng khoán và thực tiễn thực hiện việc thanh tra này vẫn chưa thể thỏa mãn được hết yêu cầu quản lý giám sát của TTCKTT. Cụ thể là
Thứ nhất là các quy định này chưa thể hiện được tính liên kết và xâu chuỗi giữa các yếu tố xuất hiện trên thị trường, mà chủ yếu thực hiện dưới quyết định dạng chương trình cho Chủ tịch Ủy ban chứng khoán phê duyệt. Thông thường các chương trình kế hoạch này thường mất thời gian rất lâu mới thực hiện, khi thực hiện có thể lại mất tính bất ngờ. Như vậy chưa phải là một cơ chế linh hoạt.
Thứ hai là, quy định về thẩm quyền của UBCKNN trong công tác thanh tra, giám sát hiện nay còn hạn chế. Khác với UBCKNN các nước trên thế giới, UBCKNN Việt Nam không có khả năng thu thập thông tin về tài khoản và giao dịch ngân hàng; không có quyền tiếp cận điện thoại, thư tín điện tử. Mặc dù UBCKNN được xác định là cơ quan có thẩm quyền giám sát hoạt động của thị trường và xử lý vi phạm, nhưng trong các quy định pháp luật hiện hành, UBCKNN lại chưa được trao thẩm quyền tiến hành điều tra, xác minh các bằng chứng về các hành vi gian lận, đầu cơ, thao túng thị trường trong hoạt động đầu tư chứng khoán - đây là những vi phạm cần được ngăn chặn và xử lý ngay nếu không đối tượng vi
phạm sẽ tẩu tán hoặc tiêu hủy chứng cứ gây khó khăn cho công tác xử lý sau này. Do vậy, thời gian qua UBCKNN gặp nhiều khó khăn trong công tác xác minh, xử lý các vụ việc giao dịch nội gián và thao túng thị trường. Hay nói cách khác là UBCKNN thiếu thẩm quyền trong hoạt động điều tra ban đầu. Có ý kiến cho rằng việc điều tra thu thập chứng cứ là hoạt động mang tính nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật, diễn ra trong quá trình tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự, dân sự hoặc hành chính. Ý kiến đó là đúng, nhưng nếu xét trên lĩnh vực chứng khoán, liệu có nên thiết lập các quy định về điều tra, thu thập chứng cứ một cách riêng biệt không thì chúng ta cần xem xét lại. Bởi lẽ chứng khoán là một lĩnh vực vô cùng rủi ro và nhạy cảm, sự can thiệp của bên ngoài khi còn sớm sẽ gây ra những hiệu ứng không tốt cho tâm lý nhà đầu tư và thị trường, hơn nữa việc điều tra về chứng khoán là hoạt động nghiệp vụ yêu cầu trình độ chuyên môn cao nên rất cần tính chuyên nghiệp của hoạt động điều tra. Mặt khác xét về bản chất, hoạt động thanh tra và điều tra cùng thực hiện một số hành vi như xem xét, đối chiếu, kiểm tra để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ việc và đưa ra kết luận, chúng chỉ khác nhau ở thời điểm tiến hành các hoạt động. Do vậy, nếu được bổ sung quy định về thẩm quyền này của UBCKNN trong các văn bản pháp luật về chứng khoán, các quy định này sẽ có tác động rất lớn đến việc bảo vệ những nhà đầu tư không chuyên nghiệp, kịp thời phát hiện ra các sai phạm để ngăn chặn, tránh được những tổn thất lớn, tổn thất hệ thống làm ảnh hưởng đến TTCKTT.
Thứ ba là Lực lượng thanh tra chứng khoán của chúng ta còn rất hạn chế về số lượng và còn yếu về năng lực. Qua rà soát tháng 10/2009, Thanh tra cả Bộ Tài chính hiện tại chỉ có khoảng 30% cán bộ có năng lực tốt, đáp ứng được yêu cầu mọi công việc; số còn lại có năng lực trung bình, trung bình khá và một số cán bộ năng lực yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Phần đông cán bộ có trình độ ngoại ngữ yếu, hạn chế về khả năng sử dụng công nghệ thông tin. Việc học tập, nghiên cứu chuyên sâu về thanh tra, kiểm tra tài chính cũng như khảo sát kinh nghiệm quốc tế về thanh tra, kiểm tra tài chính còn hạn chế [4, tr.22]. Bộ tài chính đã xây dựng chương trình để nâng cao chất lượng thanh tra Bộ nói chung, Thanh tra chứng
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Bảo Vệ Nhà Đầu Tư Không Chuyên Nghiệp Trên Thị Trường Chứng Khoán Tập Trung
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam - 10
- Về Các Biện Pháp Quản Lý Và Xử Lý Vi Phạm
- Hoàn Thiện Các Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Nhà Đầu Tư Không Chuyên Nghiệp Trên Ttcktt
- Các Đề Xuất Nâng Cao Hiệu Quả Thực Thi Pháp Luật Trong Việc Bảo Vệ Nhà Đầu Tư Không Chuyên Nghiệp Trên Ttcktt
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
khoán nói riêng, tuy đã đạt được một số kết quả khả quan, song đây vẫn là thực tế tồn tại của Thanh tra Bộ nói chung, Thanh tra chứng khoán nói riêng.
Thêm vào đó, số lượng Thanh tra của Ủy ban chứng khoan còn mỏng. Đến 10/2009, Thanh tra Chứng khoán có 17 cán bộ [4, tr.21]. Cho đến thời điểm hiện nay số lượng thanh tra Chứng khoán là hơn 20 người. Khi hoạt động chứng khoán ngày càng phát triển, thì rõ ràng với biên chế như trên, hoạt động kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực này là chưa thể đáp ứng các yêu cầu đặt ra. Theo thống kê trên hai sàn giao dịch chứng khoán HNX và HOSE, tính đến 8/2014, đã có 697 công ty niêm yết, 106 công ty chứng khoán, giá trị cổ phiếu niêm yết trên hai Trung tâm giao dịch Chứng khoán tính đến ngày cuối năm 2013 lên đến trên 642 nghìn tỷ đồng. Điều này đòi hỏi lực lượng cán bộ Thanh tra Chứng khoán phải đủ về số lượng để làm nhiệm vụ thanh tra, giám sát hoạt động trên thị trường chứng khoán. Với con số này, kể cả tất cả công việc kiểm soát được thực hiện trên hệ thống công nghệ hiện đại, chưa nói gì đến hệ thống nước ta còn nhiều khâu thủ công, vẫn phải làm việc bằng giấy tờ, cũng khó nắm hết được các đầu việc, đó là chưa nói tới những giao dịch, hiện tượng phức tạp. Nhìn sang các thị trường phát triển, dù khập khiễng, như ở Anh quốc có tới 3.000 cán bộ thanh tra chuyên trách, thì quả thật lực lượng thanh tra chứng khoán của Việt Nam vẫn còn một khoảng cách rất lớn. Thêm vào đó, cùng với sự phát triển của TTCK, không chỉ phạm vi, đối tượng của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực chứng khoán ngày càng mở rộng, mà những vi phạm trên thị trường ngày càng tinh vi, phức tạp, khó phát hiện và xử lý hơn, do vậy số lượng, đối tượng, áp lực và khối lượng công việc thanh tra, kiểm tra sẽ ngày càng lớn hơn, nặng hơn.
(iii)Về các quy định xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán
Trong quá trình thực hiện việc xử lý vi phạm trên TTCKTT vẫn còn những vướng mắc.
Thứ nhất là, đó là công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý, phối hợp xử lý các vụ việc trên TTCKTT chưa thường xuyên, chưa đồng bộ. Cơ sở pháp lý để phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
phát hiện và xử lý tội phạm chứng khoán hiện nay được quy định tại Thông tư liên tịch số 46/2009/TTLT-BTC-BCA hướng dẫn phối hợp xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK [5]. Trên thực tế, UBCKNN chỉ được thực hiện việc phối hợp trên cơ sở quyết định “giao” của Bộ Tài chính, nghĩa là UBCKNN không được chủ động trong việc phối hợp với cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an. Điều này là không phù hợp với hoạt động quản lý chứng khoán, là lĩnh vực có độ rủi ro cao và nhạy cảm, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo tập trung, trình độ quản lý cao, phải có sự quyết định nhanh chóng, đặc biệt là những tình huống quản lý mà pháp luật không quy định, quy định không rõ hoặc trong tình thế nguy cấp cần xử lý ngay.
Thứ hai là, hiện nay theo cách làm luật của Việt nam, các quy định về xử lý hình sự chỉ được quy định ở Bộ Luật Hình sự, trong khi ở nhiều nước như Thái lan, Nhật bản,.. Luật hình sự chỉ quy định những nguyên tắc chung, những loại tội phạm điển hình, còn các tội phạm trong từng lĩnh vực riêng biệt thì được quy định ngay trong chính những văn bản pháp luật về lĩnh vực đó. Điều này đã tạo điều kiện rất thuận lợi trong quá trinh áp dụng và cũng tránh phải sửa đổi bổ sung Luật hình sự nói chung. Vì vậy trong thực tế xây dựng Luật chứng khoán, nếu quy định về xử lý hình sự được đưa ngay vào văn bản pháp luật này thì rất thuận lợi trong quá trình xây dựng và áp dụng văn bản pháp luật
Thứ ba, về các biện pháp giải quyết tranh chấp:Các biện pháp giải quyết tranh chấp nhìn chung đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của thị trường chứng khoán, đáp ứng được việc bảo vệ quyền và lợi ích của các nhà đầu tư nghiệp dư, song vẫn còn một số những vấn đề còn tồn tại sau đây:
Về biện pháp giải quyết tranh chấp thương lượng: Biện pháp giải quyết thương lượng là biện pháp có nhiều ưu điểm nhất khi giải quyết tranh chấp trên TTCKTT. Tuy nhiên hiện nay Luật chứng khoán 2006 mới chỉ đề cập đến biện pháp này ở điều 131. Thủ tục thương lượng như thế nào và việc bảo đảm thi hành các giải pháp đã được thoả thuận trên cơ sở thương lượng ra sao thì chưa có quy định pháp luật điều chỉnh, chính vì vậy cơ chế giải quyết tranh chấp bằng thương lượng chưa phát huy được hiệu quả mặc dù nó có ưu điểm là giảm thiểu được xung đột xã hội và chi phí xã hội, bảo vệ được uy tín, bí mật kinh doanh của các bên.
Về biện pháp giải quyết tranh chấp hòa giải, trong bài viết “Hoàn thiện các biện
pháp bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán”, trên Tạp chí Kiểm sát, số 8/2009, Tiến sĩ Hoàng Thị Quỳnh Chi cũng đã đề cập một số bất cập trong quy định về biện pháp này như sau “Trước đây, theo quy định của Nghị định 144/2003/NĐ-CP thì “Trung tâm giao dịch CK, Sở giao dịch CK và UBCKNN có thể làm trung gian hoà giải các tranh chấp phát sinh” [14, Điều 113, Khoản 1]. Điều 37 Luật chứng khoán 2006 cũng quy định SGDCK, TTGDCK “có quyền làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch CK” [29]. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, nếu tranh chấp phát sinh giữa NĐT với thành viên giao dịch hoặc giữa thành viên giao dịch với các chủ thể có liên quan trong hoạt động giao dịch chứng khoán thì thành viên giao dịch có quyền đề nghị SGDCK, TTGDCK làm trung gian hoà giải, vậy nhà đầu tư có quyền này không? nếu NĐT không có quyền đề nghị SGDCK, TTGDCK làm trung gian hoà giải thì có thể yêu cầu tổ chức, cá nhân nhân khác làm trung gian hoà giải được hay không? Kết quả hoà giải thành có mang tính bắt buộc đối với các bên tranh chấp và có được bảo đảm thi hành hay không? Mặt khác, hoà giải có phải là thủ tục bắt buộc trước khi NĐT sử dụng các hình thức giải quyết tranh chấp khác không? Những vấn đề này cần phải có văn bản hướng dẫn thi hành.”
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật chứng khoán trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán
3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế
Đường lối phát triển của Nhà nước ta trong thời kỳ hiện nay là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và có hiệu quả đã chi phối mạnh mẽ quá trình phát triển của thị trường chứng khoán nước ta. Bản thân sự ra đời của thị trường chứng khoán và sự vận hành suốt 14 năm qua đã thể hiện đúng quan điểm này. Thực vậy, nước ta đã trở thành thành viên chính thức Tổ chức Quốc tế các Ủy ban Chứng khoán (ISOCO) từ năm 2001 và gia nhập WTO từ năm 2006. Yêu cầu hội nhập và hợp tác quốc tế đòi hỏi trước hết thị trường chứng khoán phải có hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán phù hợp với thông lệ quốc tế và những thỏa thuận mà Việt Nam đã cam kết thực hiện. Những tiêu chí về bảo vệ nhà đầu tư trong thỏa thuận hợp tác quốc tế gắn với các yêu cầu mà ISOCO đặt ra cho các thành viên đang đặt ra như một yêu cầu tất yếu chúng ta cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về TTCKTT trong lĩnh vực bảo vệ nhà đầu tư với tư cách là nguồn luật trong nước để thực thi trong thực tế.
Trong thời gian qua, chúng ta cũng đã có những bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ nhà đầu tư, và được quốc tế ghi nhận, khi Báo cáo môi trường kinh doanh của IFC, WB năm 2014, chúng ta đã tăng 3,3 điểm trong lĩnh vực bảo vệ nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư không chuyên nghiệp. Tuy nhiên xét về tổng thể, chúng ta vẫn đứng ở vị trí rất thấp trong bảng xếp hạng so với các nước trên thế giới về mức độ bảo vệ nhà đầu tư. Theo chỉ tiêu bảo vệ nhà đầu tư, năm 2010 Việt Nam, đứng thứ 157/183 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong năm 2014, Việt nam đứng thứ 160/189 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Để thị trường chứng khoán tập trung của nước ta từng bước mở cửa và hội nhập với các thị trường chứng khoán trên thế giới theo lộ trình đã cam kết, rõ ràng bảo vệ nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư nghiệp dư trên thị trường chứng khoán tập trung nói riêng là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cần có giải pháp thích hợp để nâng cao thứ hạng và cải thiện hình ảnh của Việt Nam trước con mắt nhà đầu tư nước ngoài.
3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu phát triển thị trường chứng khoán
Thứ nhất là, xuất phát từ thực tế phát triển của thị trường chứng khoán: Năm 2013, tổng giá trị huy động vốn trên thị trường chứng khoán đạt 179 nghìn tỷ đồng, đạt 31% GDP. Tính đến cuối tháng 9/2013, trên thị trường chứng khoán nước ta có khoảng 1,27 triệu tài khoản của nhà đầu tư. Trong đó số lượng nhà đầu tư chuyên nghiệp chiếm tỷ trọng tài khoản nhỏ (dưới 10%), còn chủ yếu là những nhà đầu tư nghiệp dư, tức là các nhà đầu tư cá nhân và doanh nghiệp không phải định chế đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, chiếm hơn 90%. Không chỉ chiếm số lượng đông, những nhà đầu tư này còn là chủ thể rất dễ bị thiệt hại quyền lợi. Bởi trong một thị trường đầy rủi ro, đây là những nhà đầu tư thiếu kiến thức và kinh nghiệm để đánh giá giá trị cổ phiếu, nên khi thị trường tranh mua như hiện nay thì họ sẽ không có cơ hội mua được những cổ phiếu tốt hơn trên thị trường. Họ chưa hiểu hết giá trị của các thông tin, và không có nhiều cơ hội để tiếp cận chính xác các thông tin đó nên không có sự cân đong cơ hội đầu tư một cách chính xác.
Thực tế cho thấy rằng sự tăng trưởng hay suy thoái của thị trường chứng khoán trong từng thời điểm, từng giai đoạn nhất định, chủ yếu phụ thuộc vào việc thỏa mãn rất lớn nhu cầu của nhóm nhà đầu tư này và sự biến thiên của thị trường này thường bị chi phối bởi ý chí của các nhà đầu tư, thông qua các quyết định đầu tư của họ. Việc quyền lợi của nhóm nhà đầu tư này bị xâm hại, dễ gây nên những ảnh hưởng diện rộng, tạo nên những bất ổn cho thị trường chứng khoán. Ngược lại một khi đảm bảo được quyền lợi của nhóm đối tượng yếu thế này, thị trường sẽ tạo được lòng tin của nhà đầu tư về tính lành mạnh của thị trường, là nền tảng cơ bản để tạo nên một thị trưởng ổn định, từ đó phát triển. Đây cũng chính là tiền đề tạo ra một thị trường chứng khoán lành mạnh, vận hành trôi chảy, ổn định, và hiệu quả.