Đặc Điểm Gia Đình Vùng Đồng Bằng Sông Hồng - Yếu Tố Tác Động Trực Tiếp Đến Ảnh Hưởng Của Đạo Đức Nho Giáo Đối Với Xây Dựng Gia Đình Văn


pháp trị, đức trị góp phần tạo nên sự hưng thịnh của Vương triều. Từ góc độ chính trị - xã hội, đạo đức Nho giáo đi vào đời sống của các gia đình đồng bằng sông Hồng xưa với tư cách là một thiết chế ràng buộc, quy định hành vi và các mối quan hệ giữa con người với con người, cơ sở duy trì sự ổn định từ trong gia đình đến ngoài xã hội thông qua những quy định nghiêm khắc đã được luật hóa như: là người quân tử phải trung với vua, hiếu với cha mẹ, tuân theo Ngũ thường; là phụ nữ phải tuân theo Tam tòng, Tứ đức... Những quy định này, một mặt tạo nên sự ổn định, bình yên, trật tự trên dưới từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, mặt khác thiết chế xã hội này đã để lại hậu quả nặng nề trong tâm lý xã hội với tính gia trưởng độc đoán ở người đàn ông, với sự cam chịu, an phận của người phụ nữ.

Ngày nay, với tư cách là trung tâm chính trị của cả nước, gắn với Thủ đô Hà Nội, đồng bằng sông Hồng vẫn tiếp tục khẳng định được vị trí của mình trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội với vai trò tiên phong thông qua sự lãnh đạo của cấp ủy và sự quản lý chặt chẽ của chính quyền các tỉnh. Công tác gia đình và xây dựng GĐVH được các tỉnh trong vùng quan tâm và đẩy mạnh việc thực hiện thông qua hệ thống văn bản, chủ trương, chính sách của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân và sở Văn hóa thể thao du lịch các tỉnh như: Kế hoạch triển khai chỉ thị của thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình; kế hoạch triển khai Chương trình hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình; kế hoạch triển khai thực hiện bình đẳng giới và công tác gia đình; các phong trào như: Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; phong trào xây dựng gia đình “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”, phong trào gia đình nuôi con khỏe, dạy con ngoan; các cuộc vận động: Xóa đói giàm nghèo; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc... Đây là cơ sở chính trị - xã hội quan trọng để công tác GĐVH của vùng đạt kết quả cao trong thời gian qua.

Tuy nhiên, thực tế chỉ đạo việc thực hiện, kiểm tra, giám sát của hệ thống chính trị các tỉnh đối với công tác xây dựng GĐVH vẫn còn hạn chế, “ở tất cả các cấp từ xã, phường trở lên, các hoạt động xây dựng GĐVH được lồng ghép


thực hiện cùng các hoạt động của các ban ngành, đoàn thể... Cả ba địa bàn nghiên cứu đều chưa có sự xuất hiện của một cơ quan riêng biệt phụ trách hoạt động xây dựng gia đình văn hóa..., các cán bộ làm công tác xây dựng gia đình văn hóa cũng chưa thực sự nắm rõ và chưa nêu ra được chính xác nội dung, còn nhầm lẫn với một số phong trào khác có liên quan mật thiết đến phong trào xây dựng gia đình văn hóa” [28, tr.32]. Những hạn chế này dẫn đến khó khăn trong việc khắc phục ảnh hưởng tiêu cực và phát huy ảnh hưởng tích cực của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng GĐVH ở địa phương.

- Về văn hóa, giáo dục:

Trong lịch sử hình thành và phát triển của nền văn hóa Việt Nam, khu vực đồng bằng sông Hồng có vị trí đặc biệt quan trọng. Đây “là cái nôi hình thành dân tộc Việt, là quê hương của các nền văn hóa Việt” [43, tr.97]. Từ cái nôi này, trong quá trình tồn tại, nền văn hóa đó đã giao lưu, tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhiều nước trên thế giới, tiêu biểu là văn hóa Trung Quốc. Thông qua lịch sử một nghìn năm dưới sự đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc với chính sách đồng hóa về văn hóa, cộng với một nghìn năm dưới sự cai quản của các triều đại phong kiến Việt Nam, văn hóa Nho giáo (mà tiêu biểu là tư tưởng đạo đức Nho giáo) đã thẩm thấu một cách tự nhiên, trở thành tâm lý, tính cách, phong tục tập quán, lối sống, đạo đức, văn hóa không thể thiếu của cư dân ĐBSH.

Đồng bằng sông Hồng là vùng đất có nền giáo dục khoa cử phát triển sớm trong lịch sử. Với truyền thống hiếu học, “trọng người có chữ” trở thành nhân tố tác động tạo ra một lớp trí thức đông đảo ngay từ rất sớm trong lịch sử. Thăng Long (Hà Nội) với vai trò là kinh đô, đảm nhận vị trí một trung tâm giáo dục. Với sự ra đời của Văn Miếu (1070), của Quốc Tử Giám (1076) cùng với chế độ thi cử kén người hiền tài do các Vương triều phong kiến tổ chức..., đã tạo ra cho vùng này một đội ngũ trí thức, những nhà Nho ngày càng đông đảo. Giáo sư Đinh Gia Khánh (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian) từng khẳng định: “Trong thời kỳ Đại Việt, số người đi học, thi đỗ ở vùng đồng bằng miền Bắc tính theo tỷ lệ dân số thì cao hơn rất nhiều so với các nơi khác. Trong lịch sử


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.

850 năm (1065 - 1915) khoa cử dưới các triều vua, cả nước có 56 trạng nguyên thì 52 người là ở vùng đồng bằng miền Bắc” [38, tr.57]. Qua đây cho thấy, đồng ĐBSH trong lịch sử rất phát triển về giáo dục Nho học. Đây là một khía cạnh văn hóa - lịch sử có tác động lớn đến ảnh hưởng của ĐĐNG trong đời sống xã hội của vùng nói chung và trong gia đình nói riêng. Với sự phát triển của nền giáo dục Nho học từ trong gia đình đến ngoài xã hội, dựa trên phương châm giáo dục: “Tiên học lễ hậu học văn”, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nên những gia đình nền nếp, lễ nghĩa, coi trọng giá trị và các mối quan hệ gia đình, tạo nên sự ổn định, bền vững và sức mạnh của GĐTT, đồng thời là sức đề kháng giúp hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của nền KTTT đến gia đình hiện nay. Tuy nhiên, do ảnh hưởng nặng nề của nền giáo dục Nho học đã làm hạn chế quyền tự do cá nhân, quyền tham gia vào hoạt động xã hội và sự chủ động, tích cực trong hoạt động kinh tế của các thành viên trong gia đình.

Có thể nói, những đặc điểm về vị trí địa lý tự nhiên và về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù của vùng ĐBSH đã tác động sâu sắc đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng GĐVH ở nơi đây. Chính vì vậy, để khắc phục mặt hạn chế, phát huy mặt tích cực của đạo đức Nho giáo đến xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH thì cần phải dựa trên những đặc điểm của Vùng để nghiên cứu thực trạng, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp và hiệu quả.

Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - 11

3.1.2. Đặc điểm gia đình vùng đồng bằng sông Hồng - yếu tố tác động trực tiếp đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa

Gia đình vùng ĐBSH được hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của gia đình Việt Nam, cho nên nó cũng mang những nét chung của gia đình Việt Nam. Bên cạnh đó, vùng ĐBSH có nhiều đặc điểm khác các vùng khác. Vì thế, gia đình vùng ĐBSH còn có những nét riêng biệt.

Thứ nhất, về kinh tế gia đình và phương thức tổ chức sản xuất.

Ngoại trừ các gia đình sống ở đô thị của các thành phố thì đa phần các gia đình ở vùng ĐBSH chủ yếu phát triển kinh tế gia đình dựa trên mô hình kinh tế hộ gia đình nhỏ lẻ. Tuy đã hình thành các đội sản xuất, kinh doanh buôn bán tư


nhân nhưng vốn đầu tư và quy mô nhỏ, chưa mở rộng nhiều mà chủ yếu các gia đình vẫn sản xuất nông nghiệp gắn với trồng trọt và chăn nuôi. Việc tổ chức trồng trọt và chăn nuôi của các gia đình chủ yếu đều dựa trên tư liệu sản xuất có sẵn, theo hình thức cha truyền con nối với công cụ lao động đơn giản, còn dùng sức người nhiều, tài sản của các gia đình vẫn mang tính chất chung. Bởi vậy, trong các gia đình, ông bà, cha mẹ và con cháu thường không có sự tách biệt về tư liệu sản xuất mà vẫn quây quần và dựa vào nhau về kinh tế.

Bên cạnh việc dựa vào nông nghiệp thì đời sống của đa phần người dân (đặc biệt ở nông thôn) vùng ĐBSH còn dựa vào các nghề thủ công truyền thống theo hình thức cha truyền con nối, hoặc đi làm thuê và đặc biệt một bộ phận giới trẻ (trừ những người có học hành cao) làm công nhân trong các khu công nghiệp mới mở ở Hà Nội và các tỉnh lân cận. Làm nghề truyền thống hoặc làm thuê ở vùng thành phố không phải lúc nào cũng diễn ra thường xuyên mà mang tính chất thời vụ, nên thu nhập của người dân bấp bênh, không ổn định.

Thứ hai, gia đình vùng ĐBSH gắn bó khăng khít với văn hóa làng xã.

Ở Việt Nam, ĐBSH là vùng đất được khai phá từ rất sớm, nơi đây là cái nôi của nền văn minh lúa nước, văn minh làng xã, và cũng gắn liền với sự ra đời của các gia đình từ rất sớm. Gia đình vùng ĐBSH được hình thành và sinh sống ở đây từ hàng ngàn năm về trước, họ tụ tập, quây quần bên nhau dưới sự che chở bao bọc bên trong các làng, xã. Từ trong làng, xã các gia đình phát triển, cho nên giữa gia đình - làng - xã có mối quan hệ rất khăng khít với nhau.

Dấu ấn đậm nét dưới góc độ văn hóa biểu hiện ở chỗ mỗi gia đình vùng ĐBSH luôn là một thành viên của dòng họ, xóm ngõ, phường hội, làng xã. Vì thế, gia đình xem tất cả những cái gì của làng xã là của gia đình mình, gia đình luôn gắn bó mật thiết với làng xã. Làng xã có vai trò rất lớn trong việc gắn kết giữa cá nhân - gia đình - dòng họ - đất nước. Các lễ hội truyền thống của làng xã bao giờ cũng gắn với gia đình, tham gia các lễ hội một mặt giúp cho các gia đình hòa nhập với làng nước, tiếp thu những tư tưởng, giá trị văn hóa, tinh thần để phát triển gia đình, nhưng mặt khác cũng chịu sự tác động mặt trái của nó kìm


hãm sự phát triển của gia đình. ĐĐNG cũng là một yếu tố tham gia vào quá trình tác động đó.

Thứ ba, gia đình vùng ĐBSH có đời sống văn hóa gắn liền với văn hóa truyền thống.

ĐBSH là nơi có nhiều lễ hội truyền thống và danh lam thắng cảnh nhất Việt Nam. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2016, vùng ĐBSH có hơn 19.325 di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng, chiếm 70% di tích của cả nước [99]. Giá trị phi vật thể của vùng cũng rất phong phú, đa dạng, có nhiều loại hình ca múa, nhạc dân tộc được lưu truyền... Chính vì vậy, các gia đình ở đây có đời sống văn hóa tinh thần đa dạng, phong phú gắn liền với các yếu tố văn hóa truyền thống dân tộc, mà yếu tố đạo đức, văn hóa Nho giáo là một trong những yếu tố hàng đầu. Chính vì lẽ đó, mà đạo đức Nho giáo càng có điều kiện để xâm nhập vào gia đình, ảnh hưởng đến việc xây dựng và phát triển gia đình.

Vùng ĐBSH là nơi in đậm dấu ấn của xã hội phong kiến, chính vì thế, văn hóa truyền thống phong kiến còn thể hiện rõ nét thông qua cách ứng xử trong các mối quan hệ gia đình. Điều này thể hiện đậm nét thông qua lối sống coi trọng nền nếp gia phong, coi trọng lễ nghĩa, trật tự trên dưới trong gia đình, đây là một nét văn hóa truyền thống của Vùng. Bên cạnh đó, tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng còn khá nặng nề: Đối với người chồng, hôn nhân đánh dấu việc anh ta đạt địa vị người lớn, gia nhập thế giới người trưởng thành nhưng chưa hoàn toàn trọn vẹn. Chỉ khi có con trai, anh ta mới hoàn thành nghĩa vụ với dòng dõi, địa vị của anh ta mới trở nên trọn vẹn. Còn với người vợ, khi sinh con trai, họ đã tiến một bước dài từ địa vị “người ngoài” hòa nhập hoàn toàn với gia đình. Nếu không có con trai, họ phải một mình gánh chịu hoàn toàn trách nhiệm, số phận họ trở nên bấp bênh, bất kể họ thực hiện tốt các vai trò khác trong gia đình chồng như thế nào [2, tr.25].

Điều này dẫn tới những hiện tượng tiêu cực như bất bình đẳng giới, bạo lực gia đình, đẻ nhiều..., ảnh hưởng tiêu cực đến việc xây dựng GĐVH ở địa phương hiện nay.


Như vậy, có thể thấy, gia đình vùng ĐBSH hiện nay vẫn mang đậm dấu ấn của văn hóa, đạo đức Nho giáo. Do đó, trong quá trình xây dựng GĐVH, vùng ĐBSH chịu sự tác động sâu sắc của đạo đức Nho giáo trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực.

3.1.3. Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 là xu hướng đang diễn ra trên thế giới hiện nay, Việt Nam nói chung và vùng ĐBSH nói riêng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Quá trình tham gia toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội, khả năng để các gia đình, cá nhân tiếp xúc, giao lưu với nhau, từ đó tăng thêm sự hiểu biết, góp phần nâng cao nhận thức, trình độ dân trí, cũng như tự khẳng định mình trong môi trường quốc tế, cộng đồng.

Nhờ hội nhập mà các nước trên thế giới biết đến Việt Nam, biết đến vùng ĐBSH là vùng đất mến khách, yêu chuộng hòa bình, dân chủ, có nhiều giá trị truyền thống trong đó có giá trị truyền thống về gia đình… Nhờ hội nhập quốc tế mà các gia đình vùng ĐBSH có nhiều cơ hội giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với nhau. Qua quá trình giao lưu với các nước trên thế giới, học hỏi được văn hóa tiến tiến, cái mới về bình đẳng, dân chủ, kỷ luật, kỷ cương…, của các nước từ đó khắc phục nhiều truyền thống, tập quán, phong tục cổ hủ, lạc hậu của Vùng bị xóa bỏ. Nhờ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế cũng như tham gia vào “dòng chảy” của cuộc cách mạng công nghiệp

4.0 mà người dân, các gia đình vùng ĐBSH tiếp thu được những thành tựu của khoa học, công nghệ từ đó áp dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, quá trình xây dựng nông thôn mới. Qua quá trình đó góp phần nâng cao năng suất, sản lượng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Cuộc cách mạng công nghiệp

4.0 đang tạo nhiều điều kiện thuân lợi cho các gia đình trong việc giáo dục đạo đức, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, giúp cho các thành viên


trong gia đình cập nhật thông tin, kiến thức cũng như là một phương tiện góp phần phát triển gia đình trong thời hiện đại - thời đại kỹ thuật số.

Tuy vậy, hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tạo ra những bất cập đối với sự phát triển của gia đình ở vùng ĐBSH cần phải giải quyết: nguy cơ bị đồng hóa, làm biến đổi thậm chí là phá vở các hệ giá trị văn hóa dân tộc truyền thống, các giá trị văn hóa đạo đức gia đình; tạo nên sự phân hóa giàu nghèo giữa các gia đình; hội nhập, giao lưu tạo điều kiện để kết hôn với người ngoại quốc - quá trình này đang nãy sinh nhiều vấn đề phức tạp; hiện tượng buôn bán phụ nữ, trẻ em xuyên quốc gia; hiện tượng không kết hôn, nạo phá thai, dễ dãi trong tình dục ngày càng diễn ra phổ biến tạo nên tâm lý bất an trong cộng đồng xã hội. Sự dụng công nghệ thông tin dẫn đến lệ thuộc vào nó đã làm cho con người mất đi sự gắn kết mang tính người với nhau; các thế lực thù địch sử dụng công nghệ thông tin để xuyên tạc, nói xấu chế độ chúng ta, chúng đánh vào tâm lý của giới trẻ sính ngoại hiện nay.

Những mặt trái ấy ít nhiều đã trở thành lực cản trong việc phát huy mặt tích cực cũng như hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH. Do vậy, trong trong quá trình hội nhập quốc tế, tiếp nhận thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0 các cấp chính quyền vùng ĐBSH cần chú trọng nghiên cứu, căn cứ vào thực tiễn đang diễn ra của Vùng mà đề ra các giải pháp phù hợp để tiếp thu cái mới tiến bộ, loại bỏ những cái không hợp lý vào việc xây dựng GĐVH, từ đó giúp cho việc giữ gìn, phát huy mặt tích cực cũng như hạn chế mặt tiêu cực của ĐĐNG trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH đạt hiệu quả tốt nhất.

3.2. THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY - MỘT SỐ BIỂU HIỆN CHỦ YẾU

Công tác xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, số lượng hộ gia đình đạt chuẩn GĐVH của Vùng


đạt tỷ lệ cao so với các vùng khác trong cả nước (phụ lục 1). Tuy nhiên, quá trình xây dựng GĐVH của vùng ĐBSH hiện nay đang chịu sự tác động của nhiều yếu tố mang tính truyền thống cũng như tính thời đại, trong đó đặc biệt phải kể đến là sự ảnh hưởng của ĐĐNG. Sự ảnh hưởng này mang tính hai chiều, một mặt, những giá trị của ĐĐNG góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng GĐVH, mặt khác, những tàn dư, tiêu cực của nó lại đang kìm hãm, cản trở quá trình xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH. Điều này được khẳng định thông qua các biểu hiện chủ yếu sau:

3.2.1. Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái

3.2.1.1. Ảnh hưởng tích cực

Thứ nhất, thể hiện trong tình yêu thương và trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái

Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là mối quan hệ đặc trưng, cơ bản của GĐ. Trong mỗi GĐ Việt Nam nói chung và gia đình vùng ĐBSH nói riêng, do ảnh hưởng đậm nét bởi tư tưởng ĐĐNG cùng với quan niệm dân gian coi trọng con cái của người Việt, xem con cái là tài sản quý giá nhất - “đông con hơn nhiều của”, “có con là có của”…, con cái trở thành niềm vui, niềm hạnh phúc và mục đích sống của cha mẹ. Chính vì lẽ đó nên giá trị con cái có ý nghĩa rất thiêng liêng. Trong một cuộc khảo sát các gia đình ở ĐBSH của tác giả Trịnh Duy Luân, khi được hỏi về “Mức độ quan trọng của việc có con” thì 72,8% người được hỏi khẳng định “Con cái đem lại niềm vui, hạnh phúc cho gia đình”, 61,6% cho rằng “Có con để có người chăm sóc khi về già” và 68,2% cho rằng “Con cái là nhân tố củng cố mối quan hệ giữa vợ và chồng” [49, tr.101]. Do đánh giá cao ý nghĩa của việc có con, nên người dân ĐBSH luôn dành trọn tình yêu thương cho con cái. Tình yêu thương vô bờ đó thể hiện ở sự chăm sóc con cái từ khi chào đời cho đến lúc trưởng thành; từ việc chăm sóc, nuôi dưỡng về vật chất đến sự quan tâm, đáp ứng về nhu cầu tinh thần; sự uốn nắn trong giáo dục gia đình cũng như sự đầu tư điều kiện học tập…, để con cái có cuộc sống tốt nhất. Đó là đức “Từ” mà bậc làm cha mẹ trong gia đình ĐBSH dành cho con. Trong khảo sát của tác giả luận án, khi được hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử

Xem tất cả 205 trang.

Ngày đăng: 29/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí